I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang tintuc.vnn.vn có bài Giỗ Tổ Hùng Vương: Quốc giỗ của cả dân tộc. Bài báo đưa tin: Ngày 31/3, đúng ngày Giỗ Tổ Hùng Vương và chính hội Đền Hùng, các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương đã diễn ra trên khắp cả nước tỏ lòng tri ân tới Đức Tổ tiên.
Ngày 31/3, (tức mồng 10 tháng 3 âm lịch), tỉnh Phú Thọ tổ chức trọng thể lễ dâng hương tưởng niệm các vua Hùng tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Dự lễ dâng hương có Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng; Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm... cùng đông đảo nhân dân trong và ngoài nước. Tại Hà Nội, ngày Giỗ Tổ, không ít các gia đình ở Hà Nội đã tổ chức lễ Giỗ Tổ với mâm cơm cúng Tổ.
2. Báo điện tử Chính phủ có bài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Campuchia. Bài báo phản ánh: Ngay sau khi đến Thủ đô Phnom Penh dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 20, chiều 2/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp gỡ song phương với Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen.
Hai Thủ tướng bày tỏ vui mừng trước mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước thời gian qua phát triển tốt đẹp, ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả; nhất trí thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trong thời gian tới, nhất là lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư; thống nhất tổ chức Hội nghị Xúc tiến đầu tư Việt Nam – Campuchia lần thứ 3 tại Việt Nam vào tháng 6 tới.
Năm 2012 là “Năm Hữu nghị Việt Nam-Campuchia”, kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao hai nước (24/6/1967-24/6/2012), hai Thủ tướng giao cho các Bộ, ngành hữu quan hai nước phối hợp chặt chẽ tổ chức các hoạt động thiết thực kỷ niệm sự kiện trọng đại này, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục về truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia trong các tầng lớp nhân dân.
Về phân giới cắm mốc, hai Thủ tướng nhất trí tiếp tục triển khai các thỏa thuận đã đạt được, tập trung tháo gỡ một số vướng mắc tồn tại nhằm đẩy nhanh việc hoàn thành phân giới cắm mốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam ủng hộ chủ đề của năm Chủ tịch của Campuchia: “ASEAN: một Cộng đồng, một Vận mệnh” và sẽ phối hợp chặt chẽ với Campuchia để thúc đẩy thực hiện chủ đề này; tin tưởng Campuchia sẽ tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN và năm Chủ tịch ASEAN, đóng góp vào mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảm ơn Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt tại Campuchia làm ăn, sinh sống, đồng thời đề nghị tiếp tục tạo điều kiện cho kiều dân Việt Nam có cuộc sống ổn định, phát triển, đóng góp vào sự phát triển của Campuchia cũng như thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước, hai dân tộc.
Thủ tướng Campuchia Hun Sen khẳng định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kiều dân Việt Nam định cư, sinh sống, làm ăn thuận lợi tại Campuchia cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư, kinh doanh tại Campuchia.
Đồng thời, Thủ tướng Hun Sen mong muốn Việt Nam ủng hộ Campuchia thực hiện thành công năm Chủ tịch ASEAN.
3. Báo VietnamPlus có bài Bão số 1 gây nhiều thiệt hại tại các tỉnh phía Nam. Bài báo đưa tin: Ngày 2/4, Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương cho biết, theo báo cáo nhanh số 23 của Trung tâm Phòng, chống lụt bão khu vực miền Nam, đến thời điểm này, bão số 1 chưa gây ra thiệt hại về người; 7 tàu neo đậu tại bến bị sóng đánh chìm; 4 tàu bị hư hỏng.
Mưa bão cũng làm sập đổ 195 ngôi nhà; 1.373 nhà bị tốc mái, hư hỏng; 7 trường học bị hư hỏng; 8.600 ha lúa bị đổ, hư hỏng; 121,8 ha rau màu bị hư hại.
Để hạn chế thiệt hại do mưa bão gây ra, đoàn công tác do ông Nguyễn Xuân Diệu, Ủy viên thường trực làm Trưởng đoàn cùng với đại diện Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, Văn phòng Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, Cục Khai thác bảo vệ Nguồn lợi thủy sản trực tiếp tới các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh để chỉ đạo đối phó với cơn bão số 1.
4. Trang vef.vn có bài DN 'chết" la liệt do kẹt chính sách? Bài báo phản ánh: Trong những ngày đầu năm 2012, thông tin về tình hình doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn dẫn tới phá sản hàng loạt với hơn 79 ngàn doanh nghiệp đã phá sản thì chúng ta phải hiểu là đây chỉ là "bề nổi của tảng băng chìm", và có thể còn có hàng trăm ngàn doanh nghiệp khác đang ngắc ngoải, thoi thóp chờ đăng ký tạm ngưng hoạt động hay phá sản.
Tại sao vậy? Các doanh nghiệp Việt Nam đa phần, hoặc tới 95-99%, là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc "siêu nhỏ" so với quy mô thế giới (trên thế giới, doanh nghiệp có doanh số dưới 10 triệu USD được xem là nhỏ; dưới 100 triệu USD được xem là doanh nghiệp cỡ vừa; còn ở Việt Nam các doanh nghiệp có doanh số siêu nhỏ cỡ vài trăm triệu đồng hay vài tỉ đồng là phần nhiều), do đây phần nhiều là doanh nghiệp mới, có tính chất gia đình, bạn bè, có thâm niên dưới 3-5 năm, mà theo lý thuyết thì có tới hơn 70% các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ra đời và chết đi trong vòng 3-5 năm trong điều kiện rất bình thường của nền kinh tế - xã hội.
Một trong những điểm bất thường lớn nhất của nền kinh tế ta hiện nay là "lạm phát cao" và "lãi suất cho vay rất cao" như suốt từ năm 2008 đến nay. Như vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Việt Nam đã trải qua 5 năm chịu đựng mức lãi suất vay ngân hàng cao khoảng 20%/năm - mà so sánh trên thế giới quả là một hiện tượng kinh tế xã hội rất đặc biệt (1).
Tất cả các doanh nghiệp hoạt động bằng nguồn vốn vay ngắn hạn hay dài hạn từ năm 2008 đến nay đều có nguy cơ đình trệ hoặc phá sản. Đặc biệt là các doanh nghiệp có liên quan đến đầu tư bất động sản với tỉ lệ nợ vay ngân hàng rất lớn so với vốn tự có.
Trong tình hình lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE), đặc biệt là các DNVVN thường dưới 20%/năm, thì doanh nghiệp cầm chắc thua lỗ khi vòng quay vốn chậm lại, tình trạng nợ đọng, hàng tồn kho cao, thiếu nợ dây chuyền như hiện nay.
Vậy chính sách công đưa mức lãi suất ngân hàng cho vay doanh nghiệp lên trên 20%/năm và nhìn thấy trước là DNVVN sẽ gặp khó khăn, thua lỗ kéo dài, dẫn đến phá sản cầm chắc là do đâu? Và tại sao các nhà làm chính sách công lại ra một quyết sách mà có thể nhìn thấy trước được hệ quả như vậy trong một thời gian dài?
Câu trả lời của các nhà điều hành chính sách công thường là do phải kiềm chế "lạm phát cao"? Nhưng tại sao lại có "lạm phát cao"? Câu trả lời của các nhà kinh tế vĩ mô trên khắp thế giới thường là do "chi tiêu công" cao không hợp lý, bội chi ngân sách so với thực thể của một nền kinh tế quốc gia.
Do vậy, nếu chỉ điều chỉnh chính sách tiền tệ với "lãi suất cao" hay thắt chặt tín dụng tiền tệ thì rõ ràng không phải là giải pháp căn cơ để giải quyết căn nguyên của căn bệnh "lạm phát cao". Ngược lại, đây rõ ràng là căn nguyên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp gặp khó và phá sản tăng cao bất thường trong năm nay.
Một số ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, thường là các giảng viên đại học hoặc nhà điều hành ngân hàng, chủ ngân hàng, thường lại thiên về giải pháp thắt chặt tiền tệ. Vì những người này thường không trực tiếp sống và làm việc hay cảm nhận được nỗi thống khổ của doanh nghiệp do họ không trực tiếp làm doanh nghiệp hoặc có quyền lợi mâu thuẫn ngược lại (lãi suất cao thường có lợi cho người gửi tiền hơn là người vay tiền, hay doanh nghiệp vay tiền).
Thế kẹt của chính sách công hiện nay còn nằm ở chỗ mà nay chúng ta thường nghe nói là mâu thuẫn "lợi ích nhóm". Quốc gia nào cũng có các "nhóm lợi ích" có quyền lợi trái ngược nhau.
Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp suy giảm thì có khi các ngân hàng lại thu lợi lớn như báo cáo tài chính năm 2011 của một số ngân hàng lớn có lợi nhuận tăng lớn rất đột biến (các ngân hàng lớn có tiềm lực mạnh; còn các ngân hàng nhỏ thiếu tiềm lực nguồn vốn thì cũng gặp khó khăn như doanh nghiệp vì phải vay liên ngân hàng với lãi suất cao và cũng dẫn đến tình trạng ngập nợ, mất thanh khoản phải bị sát nhập hoặc phá sản).
Nếu một chính sách công vô tình hay hữu ý cổ vũ cho lợi ích của các tập đoàn tài chính ngân hàng thì phần thiệt thòi có khi thuộc về doanh nghiệp hay cá nhân người đi vay tiền từ ngân hàng. Đây cũng xem như là một sắc thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp vay tiền. Dĩ nhiên, khi doanh nghiệp gặp khó khăn phải phá sản hàng loạt thì sau đó tới lượt ngân hàng với nhiều nợ xấu sẽ phải lãnh đủ khó khăn ở pha tiếp theo (2).
Ví dụ khác là các chính sách công về thuế trong đó có thuế thu nhập cá nhân tại các quốc gia, trong đó có Việt Nam, nếu các khoản thu ngân sách tại Việt Nam mỗi năm một tăng thêm thì việc giảm trừ cho đối tượng này đồng nghĩa với việc tăng thu ở nhóm đối tượng khác và ngược lại.
Bộ Giao thông Vận tải vừa đề xuất tăng thu thuế, phí bảo trì hay lưu thông của đối tượng là các loại phương tiện vận tải cá nhân (xe máy, xe ôtô, xe tải ..v.v...) thì vấn đề được đặt ra là số tiền thu tăng thêm này dùng để làm gì? Có kế hoạch sử dụng cụ thể nào, bao nhiêu và việc gì, mang lại lợi ích cụ thể cho đối tượng nào chưa? Nếu không sẽ tạo một tiền lệ nguy hiểm là Bộ ngành nào cũng có thể có quyền đề xuất thu thêm phí cho ngành mình mà thực chất là một sắc thuế mới đánh vào một đối tượng người dân nào đó nhằm phục vụ một lợi ích còn mơ hồ, hoặc chưa có kế hoạch rõ ràng, dẫn tới cơ hội tham nhũng trục lợi mới dựa vào nguồn thu mới này. Thử tưởng tượng là Bộ Giáo dục Đào tại muốn tăng thêm phí bảo trì hay khấu hao cho nhà trường, Bộ Tài nguyên Môi trường tăng thêm phí bảo vệ môi trường, Bộ Văn hóa Thông tin muốn thêm tăng phí trả bản quyền và tác quyền, Bộ Công Thương muốn tăng một số phí trên hàng hóa dịch vụ như xăng, viễn thông, ..v..v. thì sẽ ra sao?
Các việc liên quan đến chính sách công có liên quan đến quốc kế dân sinh, thu chi ngân sách quốc gia là những việc quốc gia đại sự, cần có các nghiên cứu luận chứng khả thi, các tư vấn đánh giá độc lập để hiểu rõ căn nguyên vấn đề, cần thiết phải có các "trưng cầu dân ý" hay Quốc hội biểu quyết đồng tình thì mới nên làm.
Điều này giúp chúng ta có cái nhìn thấu đáo về một hiện tượng kinh tế xã hội đúng với bản chất của nó và giải pháp được đưa ra phần nào thỏa mãn nhu cầu của đại đa số người dân khắp đất nước.
5. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam đưa tin: Sau 4 ngày xét xử, chiều nay (30/3), phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND TP Hải Phòng xét xử vụ án “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã kết thúc.
Hội đồng xét xử đã tuyên phạt các bị cáo như sau: Phạm Thanh Bình - nguyên Chủ tịch HĐQT Vinashin 20 năm tù; Trần Văn Liêm - nguyên Trưởng Ban kiểm soát Vinashin 19 năm tù; Tô Nghiêm - nguyên Chủ tịch Công ty TNHH MTV công nghiệp tàu thủy Cái Lân 18 năm tù; Nguyễn Văn Tuyên - nguyên TGĐ Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu thủy Hoàng Anh 16 năm tù; Trịnh Thị Hậu - nguyên TGĐ Công ty Tài chính MTV công nghiệp tàu thủy 14 năm tù; Hoàng Gia Hiệp - nguyên Phó TGĐ Công ty Tài chính MTV Công nghiệp tàu thủy 13 năm tù; Trần Quang Vũ - nguyên Tổng giám đốc Vinashin 11 năm tù; Đỗ Đình Côn - nguyên Phó TGĐ Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu thủy Hoàng Anh 10 năm tù và Nguyễn Tuấn Dương - nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần đầu tư Cửu Long 3 năm tù.
Ngoài ra các bị cáo còn phải chịu trách nhiệm dân sự, bồi thường, khắc phục thiệt hại về tài chính do hành vi phạm tội của mình gây ra.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang Voh.com.vn có bài Công chứng viên bị “tuýt còi”. Bài báo phản ánh: Sở Tư pháp TP.HCM vừa “tuýt còi” Văn phòng Công chứng trung tâm - một trong những văn phòng công chứng tư lớn nhất TP.HCM hiện nay. Trong đó, có trường hợp dự án bất động sản chưa hoàn tất thủ tục theo quy định vẫn được chứng nhận để thế chấp vay ngân hàng hàng trăm tỉ đồng.
Đó là dự án khu thương mại và nhà ở cao tầng Golden Gate do Công ty CP thương mại xây dựng Thành Hiếu (Công ty Thành Hiếu) làm chủ đầu tư. Theo hồ sơ, tháng 2.2008, UBND TP.HCM có văn bản 1062 chấp thuận chủ trương cho doanh nghiệp này sử dụng khu đất 29.000m2 tại Q.7 để đầu tư dự án. UBND TP cũng lưu ý rõ, văn bản này không phải là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp huy động vốn.
Thế nhưng, Công ty Thành Hiếu đã liên tục sử dụng văn bản 1062 như một cơ sở pháp lý về tài sản hình thành trong tương lai để huy động vốn. Cụ thể, tháng 8.2010, Thành Hiếu thế chấp dự án Golden Gate để cho Công ty CP đầu tư xuất nhập khẩu (Q.1) vay gần 178 tỉ đồng từ Ngân hàng TMCP Đại Tín - Chi nhánh Sài Gòn (TRUST Bank). Sau đó, tháng 7.2011, Thành Hiếu lại tiếp tục thế chấp dự án này để cho Công ty CP Sơn Trà Điện Ngọc vay hơn 265,6 tỉ đồng của TRUST Bank. Chưa dừng lại ở đó, chỉ một tháng sau, dự án này lại tiếp tục được Thành Hiếu thế chấp lần thứ ba để cho Công ty CP bất động sản Phương Trang Long An vay 178 tỉ đồng cũng của TRUST Bank. Như vậy, tổng số tiền Thành Hiếu đã thế chấp dự án để đảm bảo vay nợ cho các doanh nghiệp khác lên đến hơn 620 tỉ đồng.
Đáng nói là, toàn bộ hợp đồng vay ngân hàng nêu trên dù chưa đảm bảo các quy định pháp luật song đều được Văn phòng Công chứng trung tâm chứng nhận. Chính vì vậy Thanh tra Sở Tư pháp TP.HCM đã “tuýt còi” vì cho rằng dự án này chưa đủ điều kiện pháp lý để thế chấp vay ngân hàng. Theo quy định pháp luật, tài sản hình thành trong tương lai cũng được coi là tài sản có thật nhưng phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để chứng minh. Trong trường hợp tài sản hình thành trong tương lai là đất, tài sản gắn liền với đất thì tùy trường hợp cụ thể mà giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng có thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, hợp đồng góp vốn, quyết định giao thuê đất. “Công ty Thành Hiếu chưa có các giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đối với khu đất này nên chưa đủ điều kiện thế chấp tài sản. UBND TP cũng có công văn 1062 không cho phép đơn vị huy động vốn. Do đó, việc chứng nhận của công chứng viên đã vi phạm nghiêm trọng luật Đất đai, luật Công chứng và các quy định liên quan”, kết luận của Thanh tra Sở Tư pháp nêu rõ.
Thanh tra Sở Tư pháp TP.HCM cũng cho biết, qua kiểm tra ngẫu nhiên 270 hồ sơ công chứng cho thấy việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch của công chứng viên (CCV) Văn phòng Công chứng trung tâm có tỷ lệ vi phạm cao (41 hồ sơ, tương đương 15,2%). Đáng nói, văn phòng này có 3 CCV thì cả 3 đều bị phát hiện sai phạm, về cả điều kiện, hình thức, nội dung văn bản cũng như thẩm quyền địa hạt công chứng. Chẳng hạn, có trường hợp thỏa thuận tài sản riêng của vợ chồng ở Lâm Đồng và Đồng Nai, đáng lẽ phải do tổ chức hành nghề công chứng của các tỉnh này chứng nhận, song cũng được Văn phòng Công chứng trung tâm “ôm” luôn.
Trước đó, năm 2010, thanh tra cũng từng phát hiện nhiều vi phạm tại đây song cho đến thời điểm kiểm tra mới nhất, văn phòng này vẫn chưa quan tâm nhiều đến việc khắc phục các vi phạm cũ mà còn phát sinh thêm nhiều vi phạm mới. Theo bà Ngô Minh Hồng, Giám đốc Sở Tư pháp, nguyên nhân dẫn đến vi phạm là do CCV chưa có chuyển biến tích cực, chưa nghiêm túc tiếp thu, chỉnh sửa những sai phạm đã bị phát hiện trước đó. Một số trường hợp có biểu hiện cố ý không chấp hành pháp luật, dễ dãi chấp thuận theo yêu cầu không đúng quy định của khách hàng để giải quyết hồ sơ…
2. Báo Người lao động đưa tin: Chiều 2-4, TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) cho biết Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương liên quan đang nghiên cứu, đề xuất biện pháp xử lý các kiến nghị của HĐND TP Đà Nẵng về hạn chế nhập cư để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài nội dung quy định tạm dừng đăng ký nhập cư, giữ xe 60 ngày đối với học sinh điều khiển xe máy, ngừng đăng ký mới dịch vụ cầm đồ đã bị “tuýt còi”, các bộ, ngành liên quan đang tiếp tục nghiên cứu mở rộng các nội dung khác trong Nghị quyết 23/2011 của Thường trực HĐND TP Đà Nẵng; nếu thấy những nội dung nào trái luật sẽ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng, trong thời gian chờ ý kiến của Chính phủ về những vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật về cư trú, TP Đà Nẵng không được tạm dừng đăng ký nhập cư.
3. Báo Hà Nội mới có bài Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chồng chéo: Khốn khổ với “9 không” . Bài báo phản ánh: Để người dân nhận biết văn bản nào còn hiệu lực trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phức tạp hiện nay, tháng 3 này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, đây không phải cây gậy pháp lý đủ mạnh giải quyết tận gốc tình trạng chồng chéo văn bản pháp luật hiện nay.
Luật sư Nguyễn Hoài Nam - Đoàn Luật sư Hà Nội ví hệ thống pháp luật nước ta hiện nay giống như một khu rừng mà trong đó trung bình mỗi năm lại "mọc" thêm 4.000 "cây" văn bản quy phạm pháp luật mới. Với khối lượng đồ sộ như vậy, lại liên tục thay đổi do đang trong quá trình hoàn thiện, đã gây rất nhiều khó khăn cho không chỉ người dân mà cả các "thầy cãi" trong việc tìm kiếm và xác định hiệu lực của các quy định, văn bản.
Có những văn bản mà theo luật sư Nguyễn Hoài Nam, ngay cả chuyên gia pháp luật cũng không hề biết bộ dạng. Đó phần nhiều là những công văn mang tính hướng dẫn của một bộ, ngành nào đó. Tìm nội dung đã khó, làm thế nào để phân biệt giá trị pháp lý của từng điều khoản lại là chuyện có thể gây nên một "cơn ác mộng" thực sự cho người sử dụng. Vì không ít chương thiếu hướng dẫn chi tiết, sau khi báo chí phản ánh, Ban soạn thảo mới cập nhật, bổ sung rải rác trong dăm bảy thông tư kèm theo. Trước tình hình đó, nhu cầu về một văn bản hợp nhất có giá trị chính thức là hết sức cấp thiết, không chỉ đối với người dân mà cả đối với chính cơ quan nhà nước trong việc quản lý hệ thống pháp luật. Có thể hiểu sản phẩm này như cái ngăn kéo, từ luật của Quốc hội đến thông tư cấp bộ về bất cứ lĩnh vực nào đó được xếp vào từng ô, làm cho hệ thống pháp luật minh bạch hơn.
Tuy nhiên, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật lợi thì có lợi, nhưng mới chỉ dừng lại ở hình thức hợp nhất các nội dung đã sửa đổi, bổ sung thành một văn bản pháp luật có tính chính xác hoàn toàn, tức là cắt dán, sao chép, tổng hợp lại để tiện mục đích tra cứu. Trong khi đó, điều người dân và các chuyên gia pháp luật mong mỏi hơn cả là sau quá trình thực hiện hợp nhất, phải có cơ chế loại bỏ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Theo điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ, thực trạng kém chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật hiện hành có thể gói gọn trong "chín không": Không đầy đủ, không rõ ràng, không cụ thể, không tương thích, không minh bạch, không tiên liệu trước, không hợp lý, không hiệu quả và không hiệu lực. Các mâu thuẫn giữa những văn bản được thể hiện cụ thể ở sự quy định khác nhau về xử lý hành vi liên kết lũng đoạn giá thị trường, giải phóng mặt bằng giữa Luật Cạnh tranh 2004, Pháp lệnh Giá 2002 và Luật Đầu tư. Đó là chưa kể 64 tỉnh, thành phố trên cả nước với mỗi nơi thực hiện một kiểu. Hay mới đây, theo kết quả rà soát quy định của Luật Đất đai và pháp luật về khiếu nại, khởi kiện cho thấy có nhiều mâu thuẫn khó thực hiện về trách nhiệm xử lý của chính quyền địa phương; thẩm quyền giải quyết khiếu nại, quyền khởi kiện vụ án hành chính…
Đi liền với những quy định chồng chéo, mâu thuẫn là sự thường xuyên thay đổi, tính ổn định không cao của hệ thống văn bản dưới luật đã làm giảm hiệu lực của văn bản luật, dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định chính trị xã hội, nhất là quan hệ kinh tế. Đồng thời, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Còn tồn tại những luật "khung", luật "ống" trong khi đó nhiều lĩnh vực như đất đai, thủy sản, lao động… đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể và chi tiết.
Nay Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật quy định văn bản hợp nhất có giá trị sử dụng chính thức trong việc áp dụng và thi hành pháp luật như văn bản, nhưng trong trường hợp có sai sót, mâu thuẫn, luật "đá" nghị định thì người dân áp dụng loại nào? Văn bản hợp nhất hay văn bản gốc và cơ quan nào sẽ phải chịu trách nhiệm? Đó là băn khoăn của nhiều chuyên gia pháp luật. Thực trạng trên cho thấy, việc triển khai và áp dụng Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam như thế nào cho phù hợp còn là vấn đề cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết.
Trong điều kiện Quốc hội nước ta làm việc không thường xuyên, mỗi năm họp 2 kỳ với thời gian mỗi kỳ họp không thể kéo quá dài, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách, cần xác định một cơ chế hợp lý để Quốc hội giám sát chất lượng của các Bộ pháp điển và phê chuẩn các Bộ pháp điển ở cấp độ văn bản luật. Nên chăng, có thể nghiên cứu việc giao cho một cơ quan của Quốc hội phê chuẩn Bộ pháp điển hoặc Quốc hội có thể ủy quyền cho Chính phủ rà soát việc tiến hành hợp nhất văn bản từng ngành. Cơ quan này đồng thời có trách nhiệm phối hợp với các bộ chủ quản rà soát, kiểm tra, thống kê những vấn đề chưa thống nhất, chưa đồng bộ trong các quy phạm pháp luật ban hành và nghiên cứu đề xuất loại bỏ, bổ sung. Và sau đó các văn bản này sẽ được Quốc hội lần lượt điều chỉnh, hợp thức hóa để bảo đảm chất lượng, tính chính xác.