Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Có thể nói, hệ thống các quan điểm của Người rất rộng lớn được thể hiện trong các bài nói, bài viết, diễn văn, diễn thuyết... Học tập tư tưởng ở người là học tập suốt đời. Chính vì thế, câu hỏi đặt ra là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học những gì và như thế nào? Câu trả lời là “Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn với việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.”[1].
Theo đó, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác là học những quan điểm, những nội dung cơ bản theo từng chuyên đề, từng năm mà cấp ủy cấp trên trên đã triển khai. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức từng ngành, cơ quan, đơn vị chọn những nội dung liên quan đến chức trách công vụ để học tập tư tưởng, quan điểm của Bác, qua đó soi rọi, vận dụng vào công việc một cách thiết thực và hiệu quả.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật hoàn toàn đúng đắn đến giai đoạn hiện nay.
Năm 1950, trực tiếp phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Người nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của pháp luật:
“… Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do quá mức của mình mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”;
Người căn dặn:
“… Chúng ta cũng thấy luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú có trách nhiệm phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn.… Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ …
Tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.[2]
Đến năm 2005, Phát biểu ấy của Người đã trải qua thời gian 55 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị và những nội dung ấy được nhận định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện HTPL Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Cụ thể như sau:
Về ưu điểm: Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các VBQPPL được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...
Về hạn chế:”Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao….”.[3]
Tiếp tục cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 48, năm 2015 Quốc hội đã thông qua Luật Ban hành VBQPPL, với mục tiêu là: “Tạo khuôn khổ pháp lý với nhiều đổi mới về xây dựng, ban hành VBQPPL nhằm xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.” [4]
Chúng ta thấy rằng, nhận định của Người rất đúng đắn, tầm nhìn vượt đời đại. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, nó là phương tiện không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Trong công cuộc đổi mới, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.
Điển hình: Một nhà đầu tư nói chung, muốn đầu tư vào Việt Nam hoặc 01 tỉnh nào đó, điều họ qua tâm trước tiên là hệ thống pháp luật có đầy đủ và ổn định hay không, các chính sách có công khai, minh bạch hay không, để quyền của họ có được pháp luật bảo vệ, mục tiêu kinh doanh của họ có được đảm bảo theo định hướng, kế hoạch mà họ đã đề ra. Vậy vấn đề đặt ra là, nếu như những vấn đề mà họ quan tâm không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của họ và họ sẽ hạn chế việc đầu tư. Ngược lại, hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện, ổn định sẽ tạo lòng tin và góp phần quan trọng vào thu hút đầu tư.
2. Mối liên hệ giữa tư tưởng của Bác đối với công tác xây dựng pháp luật
Đối với lời dặn của Người, “Tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Chúng ta hãy vận dụng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, phải công bằng
Ở góp độ xây dựng pháp luật, cùng một đối tượng, cùng trong điều kiện và hoàn cảnh như nhau thì quyền và nghĩa vụ như nhau, không được hạn chế quyền của người này mà tăng quyền của người khác. Nếu như có sự phân biệt, những đối tượng thiệt thòi sẽ kiến nghị, khiếu nại, làm giảm hiệu lực hiện quả của quy phạm pháp luật.
Chính vì vậy, xây dựng và ban hành căn bản quy phạm pháp luật có nhiệm vụ phải tối ưu hóa mọi lợi ích của mọi thành phần xã hội, điều đó cần phải thực hiện tốt công tác đánh giá tác động chính sách ở nhiều góc độ (kinh tế, xã hội, giới, pháp luật…). Bên cạnh đó, phải có cơ chế giải trình, kiểm tra, giám sát và đảm bảo minh bạch thông tin. Người dân phải được quyền biết và đóng góp ý kiến vào việc hình thành các quy định của pháp luật.
Thứ hai, phải liêm khiết, trong sạch
Đó là một phẩm chất đạo đức của con người thể hiện lối sống trong sạch, không hám danh, hám lợi, không bận tâm về những toán tính nhỏ nhoi ích kỉ.
Trong thời gian qua, cụm từ “lợi ít nhóm” xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin và nội dung này cũng được Thủ tướng phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2017. Theo đó, Thủ tướng đặc biệt lưu ý ngành tư pháp “…cần làm tốt khâu thẩm định luật pháp,“chống lợi ích nhóm” trong xây dựng, thiết kế pháp luật. “Chúng ta không chấp nhận văn bản pháp luật ban hành có nội dung không vì lợi ích của toàn xã hội mà vì lợi ích riêng của một bộ,ngành nào đó. Cần rút kinh nghiệm và làm gương những việc này, không được “cài cắm” vào luật những nội dung không vì lợi ích chung mà để phục vụ lợi ích riêng của đơn vị, ngành mình hoặc một nhóm người nào đó bị chi phối”.[5]
Như vậy, mục đích xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết vấn đề thực tiễn đang xảy ra mà chưa có pháp luật. Trong xây dựng, góp ý, thẩm định, thẩm tra và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải vì lợi ích chung, trong đó lợi ích của người dân, của địa phương là trên hết. Không vì lợi ích riêng của một nhóm, một ngành, cơ quan nào đó mà không tham mưu hoặc tham mưu không đúng với quy định của pháp luật, không phù hợp với thực tiễn, dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chung của người dân và xã hội.
Thứ ba, phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân
Muốn giúp dân phải gần dân để hiểu dân và học nhân dân. Ở góp độ xây dựng pháp luật đó là tính thực tiễn. Để các quy định vào cuộc sống, trước tiên phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng chịu sự tác động. Do đó, phải sâu sát thực tế để có cái nhìn bao quát, đầy đủ, toàn diện, đúng bản chất của của vấn đề, trên cơ sở đó vận dụng lý luận, cơ sở khoa học tham mưu và ban hành sẽ đảm bảo tính phù hợp. Có như vậy, sẽ hạn chế tối đa những trường hợp các văn bản không xuất phát từ thực tiễn, không đi vào cuộc sống trong thời gian qua, như: Quy định Mẹ VNAH được cộng 02 điểm nếu họ thi ĐH, CĐ: Lỗi tại ai?[6]; Quy định bán thịt trong 08 tiếng, sẽ rà soát, điều chỉnh[7];
Tóm lại, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, càng thấy rõ hơn tầm vóc của một nhà tư tưởng lớn. Phát biểu và lời căn dặn của Người đã trải qua 69 năm vẫn còn nguyên những giá trị mang tầm thời đại. Cụ thể là hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện: Tập trung ban hành VBQPPL để điều chỉnh những vấn đề phát sinh của xã hội, giữ vững trật tự kỷ cương; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, xử lý với hành vi vi phạm; người cán bộ tham gia công tác văn bản phải liêm chính, trong sạch, không cài cắm lợi ích nhóm trong VBQPPL; văn bản phải sát với thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ.
3. Vận dụng tư tưởng của Bác trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Để học tập và làm theo Tư tưởng của Bác được hiệu quả, trước tiên là học tập và làm theo những việc liên quan đến nhiệm vụ chuyên môn. Cụ thể trong công tác tham mưu xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, như sau:
Trong từng lĩnh vực phụ trách, phải kịp thời tham mưu ban hành thể chế để giúp lãnh đạo điều hành, quản lý. Bởi, không ban hành kịp thời, sẽ khó xử lý hoặc mỗi nơi thực hiện một kiểu, tùy tiện, dẫn đến quản lý kém hiệu quả.
Trong tham mưu ban hành văn bản phải vì lợi ích chung của người dân, địa phương và xã hội. Do đó, cần phải trung thực, công tâm, chấp hành nghiêm quy trình về xây dựng và ban hành theo quy định của Luật.
Cần phải quan tâm đến nhân dân, gần dân để hiểu thêm, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của họ, những đề đạt, phản ánh để có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn. Như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu “Phải lắng nghe hơi thở cuộc sống để hoàn thiện thể chế”.[8]
Luôn luôn học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nâng cao năng lực để những tham mưu của mình đúng, phù hợp với chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
Tóm lại, những yêu cầu nêu trên rất cụ thể và gần gửi, không quá cao xa. Nhưng nếu chúng ta làm và đạt được tự dung sẽ hiện lên hình ảnh của người cán bộ, công chức “cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. Có như thế, tin rằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ ngày càng hoàn thiện, đi vào cuộc sống, góp phần đảm bảo hiệu lực và hiệu quả./.
Nguyễn Văn Thơm – Sở Tư pháp An Giang
[1] Khoản 3 Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 15-5-2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.