Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, tổ chức bổ trợ tư pháp trong đó có luật sư đặc biệt được quan tâm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới với việc ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư (1987) và gần đây là Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Nhà nước đã bước đầu thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tổ chức và hoạt động của luật sư, xác định luật sư là một nghề nghiệp đặc biệt trong xã hội và tạo môi trường pháp luật thuận lợi cho sự phát triển đội ngũ luật sư và hoạt động nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới thì tổ chức và hoạt động luật sư còn có nhiều vấn đề bất cập như đội ngũ luật sư vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng và chưa ngang tầm với nhiệm vụ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của xã hội. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi khái quát lịch sử phát triển, thực trạng tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta và từ đó đề xuất định hướng phát triển trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
1. Khái quát quá trình hình thành tổ chức và hoạt động luật sư ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước người Pháp chiếm độc quyền nghề luật sư. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930, thực dân Pháp mới tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn có người Việt Nam tham gia.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư.
Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 duy trì tổ chức luật sư cũ với một số điểm sửa đổi cho thích hợp với tình hình mới. Ngoài ra, bằng Sắc lệnh số 217/SL ngày 22/1/1946 cho phép các thẩm phán đệ nhị cấp (tỉnh và khu) có bằng luật khoa cử nhân được bổ nhiệm sau 19/8/1945, có thể ra làm luật sư mà không phải tập sự tại một Văn phòng luật sư.
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được ghi nhận ngay từ Sắc lệnh đầu tiên về Toà án. Điều 5 Sắc lệnh ngày 13/9/1945 thiết lập các Toà án quân sự quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình”. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là nguyên tắc dân chủ quan trọng trong tố tụng đã được thừa nhận và thể hiện trong Điều 67 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như sau: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.(1)
Do điều kiện lúc bấy giờ số lượng luật sư ở nước ta rất ít, mặt khác do hoàn cảnh kháng chiến, một số luật sư đã tham gia cách mạng, còn một số luật sư thì chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác. Vì vậy, vào thời kỳ này hầu như các Văn phòng luật sư đều ngừng hoạt động. Để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, trong khi số lượng luật sư còn ít, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 (do Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 sửa đổi) đã được ban hành, cho phép nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận. Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hoặc nhân thân bị can.
Để cụ thể hóa Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ - VY ngày 12/01/1950 ấn định điều kiện để làm bào chữa viên và phụ cấp của bào chữa viên.
Hiến pháp năm 1959 đã thiết lập hệ thống Toà án và Viện kiểm sát và Bộ Tư pháp không còn tồn tại, công tác hành chính tư pháp được giao cho Tòa án tối cao đảm nhiệm, trong đó có công tác bào chữa. Để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đã được Hiến pháp năm 1959 quy định (Điều 101), năm 1963 Văn phòng luật sư thí điểm được thành lập lấy tên Văn phòng luật sư Hà Nội.
Sau khi tổ chức Văn phòng luật sư, tình hình yêu cầu bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước tòa ngày càng tăng. Lúc đầu nhận bào chữa những vụ án do Tòa án yêu cầu, về sau các bị cáo, đương sự mời luật sư thì trực tiếp đến Văn phòng luật sư.
Năm 1972 thành lập Uỷ ban pháp chế của Chính phủ. Năm 1974 Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao Văn phòng luật sư sang ủy ban pháp chế của Chính phủ theo chức năng quy định tại Nghị định 190/CP ngày 9/10/1972.
Sau khi có Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập lại Bộ Tư pháp, ngày 22/11/1981 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý hoạt động hành chính tư pháp trong đó có hoạt động luật sư. Trong khi chờ một văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, sau khi trao đổi với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số cơ quan hữu quan khác, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 691/QLTPK ngày 31/10/1983 hướng dẫn về công tác bào chữa. ở một số tỉnh thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân và tồn tại cho đến khi ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987.
Theo hướng dẫn của Thông tư này ở thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng đã có tổ chức luật sư, bào chữa thì củng cố lại về tổ chức, quản lý chặt chẽ hơn. Còn ở các tỉnh khác nếu có đủ điều kiện và được Uỷ ban nhân dân tỉnh cho phép thì thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân. Người làm công tác bào chữa phải là công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt; gương mẫu chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức pháp lý cần thiết. Cho đến cuối năm 1987 đã có 30 tỉnh, thành phố thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân với gần 400 bào chữa viên.
Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1980 đều thể hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Song Điều 133 Hiến pháp 1980 còn quy định: “Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”(2). Đó là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng một văn bản pháp luật về tổ chức luật sư ở Việt Nam.
Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Pháp lệnh cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về chế định luật sư, tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam.
Để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành “Quy chế Đoàn luật sư” kèm theo Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/2/1989, tiếp đến Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 313/TT/LS ngày 15/4/1989 hướng dẫn thực hiện Quy chế Đoàn luật sư.
Sau khi Pháp lệnh Tổ chức luật sư được ban hành, theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn điều kiện và giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn gia nhập Đoàn luật sư, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chuẩn bị hồ sơ thành lập Đoàn luật sư. Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo quy định tại Điều 7 Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định cho phép thành lập Đoàn luật sư.
Xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta ở thời điểm ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 số người có bằng cử nhân luật rất ít, nhất là các tỉnh miền núi, cho nên quy định về trình độ pháp lý đối với người muốn gia nhập Đoàn luật sư nếu không có bằng cử nhân luật thì phải có trình độ tương đương đại học pháp lý. Đồng thời, Pháp lệnh cũng cho phép cán bộ, công chức được kiêm nhiệm hành nghề luật sư. Số luật sư kiêm nhiệm ở các Đoàn luật sư chiếm khoảng 40% trong tổng số luật sư của cả nước. Số luật sư chuyên trách thì đa phần là cán bộ nghỉ hưu.
Đội ngũ luật sư từ 186 luật sư năm 1989 đến 30/9/2001 số luật sư trong cả nước là 2100 luật sư. Nhìn chung số lượng luật sư trong cả nước tăng chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội ngày càng phát triển. Sở dĩ có tình trạng này, một mặt là do đội ngũ những người có đủ điều kiện gia nhập Đoàn luật sư còn ít, các quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Quy chế Đoàn luật sư và bản thân hoạt động của các Đoàn luật sư chưa tạo thuận lợi và chưa thực sự hấp dẫn nên chưa thu hút được đông đủ những người có đủ điều kiện gia nhập Đoàn luật sư, mặt khác một số Đoàn luật sư chưa quan tâm thích đáng đến công tác phát triển luật sư.
Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về chế định luật sư, tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam. Có thể nói từ khi thành lập nước đến nay, đây là văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh quy định về tổ chức và hoạt động luật sư. Pháp lệnh chứa đựng những quy định cơ bản liên quan đến nghề luật sư, phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ. Cho đến nay ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều đã thành lập các Đoàn luật sư. Cùng với việc thành lập các Đoàn luật sư thì đội ngũ luật sư ở nước ta cũng được hình thành và phát triển, trong đó tỉ lệ luật sư có trình độ đại học luật ngày càng tăng. Hoạt động tích cực của đội ngũ luật sư đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức, đồng thời qua đó cũng nâng cao uy tín nghề nghiệp của luật sư.
Tuy nhiên, trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã có những chuyển biến to lớn về mọi mặt trong đời sống xã hội. Trong tình hình đó nhiều quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư không còn phù hợp với thực tiễn, làm cho hoạt động luật sư không đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của xã hội. Trong đó phải kể đến các quy định về điều kiện và thủ tục công nhận luật sư, hình thức hành nghề và vấn đề quản lý đối với hoạt động luật sư.
Trong bối cảnh chính sách mở cửa, quan hệ về pháp luật, tư pháp giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Nhà nước ta cho phép luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam. Tình hình đó đặt ra yêu cầu nhanh chóng đưa chế định luật sư của nước ta cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Cùng với việc cải cách tư pháp, việc cải cách tổ chức và hoạt động luật sư là cần thiết, trong đó có việc sửa đổi Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987. Việc sửa đổi Pháp lệnh được đặt ra trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều nêu lên những quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và luật sư nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa VIII) đã nêu rõ: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư... phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong tư vấn pháp luật và trong tố tụng”.
Nếu như Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 có vai trò rất quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành đội ngũ luật sư ở nước ta thì Pháp lệnh Luật sư đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/7/2001 là bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế luật sư ở nước ta, đưa chế định luật sư của nước ta xích gần với thông lệ quốc tế. Pháp lệnh Luật sư không chỉ nâng cao vị thế của luật sư trong xã hội, mà còn đưa luật sư của nước ta lên ngang tầm với luật sư của các nước trên thế giới và trong khu vực.
2. Thực trạng tổ chức và hoạt động luật sư ở Việt Nam.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 tạo ra một bước phát triển đúng hướng cho nghề luật sư ở nước ta. Pháp lệnh Luật sư khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và mang tính chuyên nghiệp cao. Điều 7 Pháp lệnh Luật sư quy định: “Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư”. Về tiêu chuẩn chuyên môn, Pháp lệnh Luật sư đưa ra một đòi hỏi cao hơn, quy định người muốn được công nhận là luật sư thì sau khi tốt nghiệp đại học luật (không chấp nhận trình độ tương đương đại học luật như quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987) còn phải qua một khoá đào tạo luật sư và một thời gian tập sự là 24 tháng (khoản 1 Điều 8 của Pháp lệnh Luật sư). Để chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư. Quy định như vậy là phù hợp với tính chất của nghề luật sư, thông lệ quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với Pháp lệnh về cán bộ, công chức.
Pháp lệnh Luật sư đã phân định rõ tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề của luật sư. Việc phân định rõ tổ chức xã hội- nghề nghiệp với tổ chức hành nghề của luật sư là tạo điều kiện cho các luật sư thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề; tạo cơ sở pháp lý mở rộng mạng lưới dịch vụ của luật sư theo nhu cầu của xã hội; đồng thời đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Đoàn luật sư.
Pháp lệnh Luật sư quy định rõ các luật sư được tự do thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh theo quy định của pháp luật, tự tổ chức và tự chịu trách nhiệm về việc hành nghề của mình trong Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh do mình thành lập (Điều 17, Điều 18 và Điều 19 của Pháp lệnh Luật sư).
Pháp lệnh Luật sư đã mở rộng đáng kể quyền của luật sư. Luật sư được quyền đứng ra thành lập Văn phòng luật sư cá nhân của mình hoặc cùng với các luật sư khác thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh; được hợp tác với tổ chức luật sư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật quy định; được đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài. Pháp lệnh cũng quy định rộng và cụ thể hơn phạm vi và các lĩnh vực hành nghề của luật sư, trong đó, ngoài lĩnh vực tham gia tố tụng, đã chú trọng hơn đến lĩnh vực tư vấn pháp luật của luật sư, đặc biệt là tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh.
Pháp lệnh Luật sư đã thể chế hoá chủ trương của Đảng “kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”. Việc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức luật sư đã được thể hiện ngay từ quy định về điều kiện hành nghề luật sư; theo đó, một người muốn hành nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn luật sư và phải có chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước cấp. Người muốn được hành nghề luật sư trước hết phải gia nhập một Đoàn luật sư để tập sự hành nghề và sau khi đã đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự sẽ được Đoàn luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 7, Điều 8, Điều 10, Điều 13 của Pháp lệnh Luật sư).
Để triển khai thi hành Pháp lệnh Luật sư ngày 12/12/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư và ngày 22/01/2002 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 02/2002/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư.
Ngày 05/8/2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 356b/2002/QĐ-BT ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư. Thông tư liên tịch “Hướng dẫn về thù lao và chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng” đã được Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng và ban hành ngày 6/12/2001. Về chế độ thuế đối với Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 53/TT-BTC ngày 02/6/2003 hướng dẫn về vấn đề này. Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thủ tục khi luật sư tham gia tố tụng, cần sớm soạn thảo Thông tư liên tịch về bảo đảm sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự.
Ngoài những văn bản kể trên, Bộ Tư pháp đã có nhiều công văn hướng dẫn Sở Tư pháp, Đoàn luật sư kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thi hành Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Có thể nói, các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư đã quan tâm và có nhiều cố gắng trong việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Sau hơn ba năm thi hành Pháp lệnh Luật sư, nghề luật sư ở nước ta đã có một diện mạo mới và đang được tiếp tục củng cố, phát triển theo định hướng và mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra. Chất lượng đội ngũ luật sư đã được nâng lên một bước đáng kể theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá, mở ra triển vọng to lớn cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ luật sư Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mở rộng và nâng cao chất lượng hành nghề luật sư là đòi hỏi khách quan của xã hội. Nhà nước cần tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư thành lập và mở rộng phạm vi hành nghề của các tổ chức hành nghề luật sư bằng việc tiếp tục đơn giản thủ tục đăng ký hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư. Các luật sư chủ động củng cố, kiện toàn các tổ chức hành nghề luật sư đã được đăng ký hoạt động, đổi mới công tác quản lý điều hành, tăng cường công tác quản lý luật sư của các tổ chức hành nghề luật sư.
Tiếp tục nâng cao, tạo một bước chuyển biến quan trọng về chất lượng hành nghề luật sư. Khắc phục những nhược điểm, những yếu kém về chuyên môn, tiêu cực về đạo đức nghề nghiệp, đồng thời phát huy những ưu điểm, mặt tích cực của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng, tiếp tục góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị và thi hành các bộ luật tố tụng. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư theo hướng nâng cao chất lượng tư vấn, mở rộng phạm vi nội dung và đối tượng tư vấn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại trong nước và quốc tế. Để mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng dịch vụ của luật sư, cần quan tâm hơn nữa đến công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho các luật sư; nghiên cứu xây dựng chuẩn mực về văn hoá giao tiếp, ứng xử của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp.
Sau hơn ba năm thi hành Pháp lệnh Luật sư, có thể khẳng định rằng những kết quả đã đạt được là cơ bản và đáng kể, những hạn chế , khó khăn chỉ là thứ yếu và tạm thời. Từ những kết quả và hạn chế đó rút ra những bài học bổ ích để tiếp tục thi hành tốt hơn nữa Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và hoàn thiện pháp luật về luật sư.
3. Định hướng phát triển tổ chức và hoạt động luật sư ở Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước luôn là nhiệm vụ trung tâm trong việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong thời gian qua. Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về hoàn thiện bộ máy nhà nước, không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Nhà nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ chiến lược với phương châm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với việc cải cách bộ máy nhà nước và cải cách nền hành chính, trong nhiều nghị quyết của Đảng ta đã đề ra cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Toà án, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có luật sư.
Như vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư là một trong những nội dung của cải cách tư pháp và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động sư phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nuớc nói chung.
Nhiệm vụ của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Hoạt động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Hoạt động của luật sư còn là phương tiện hữu hiệu giúp cho cá nhân, tổ chức bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với chức năng, vai trò của luật sư trong xã hội nói chung, trong hoạt động tư pháp nói riêng, Đảng ta có chủ trương củng cố và tăng cường đối với tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp… phù hợp với chủ trương xã hội hoá, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”.
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng ta về cải cách tư pháp cho thấy trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta rất chú trọng đến cải cách tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nghị quyết đã nêu rõ: “nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”. Để thực hiện những nhiệm vụ mà Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp và luật sư theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan đồng thời xác định rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tư pháp. Việc sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là nhằm thể chế hoá những quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hoá một số quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) về toà án và viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra là cần thiết lập được một cơ chế tổ chức, phối hợp kèm theo các biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực sự của luật sư trong quá trình tranh tụng tại phiên toà, xác định rõ vai trò của bổ trợ tư pháp trong hoạt động tư pháp.
Các văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra những định hướng rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động luật sư cho phù hợp với tình hình mới của đất nước trước xu hướng phát triển và hội nhập. Để đưa được các quan điểm chỉ đạo đó trở thành hiện thực đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản trong đó phải kể đến các biện pháp về đổi mới nhận thức, đổi mới về công tác tổ chức, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư. Việc thực hiện các biện pháp đó phải gắn liền với mục tiêu của cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đứng trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách trong việc cải cách hệ thống tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động. Quan điểm mang tính định hướng là cải cách tư pháp phải nằm trong chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định rõ thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân các cấp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (3).
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một số bước quan trọng về cải cách tư pháp. Tổ chức, bộ máy của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án, thi hành án và bổ trợ tư pháp đã có nhiều điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức tư pháp, bổ trợ tư pháp như luật sư đã được xác định rõ ràng hơn. Hoạt động luật sư ngày càng phát triển, góp phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư pháp và nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân, hỗ trợ có hiệu quả cho công dân trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thì tổ chức và hoạt động luật sư còn có những bất cập nhất định cần tiếp tục đổi mới theo hướng từng bước xã hội hoá.
Xã hội hoá tổ chức và hoạt động luật sư cần theo định hướng cơ bản sau đây:
- Cần khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và vì vậy tổ chức, hoạt động luật sư cần được xây dựng trên những nguyên tắc là một nghề chuyên nghiệp, nghề tự do;
- Cần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu về luật sư tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử;
- Từng bước chuẩn hoá các tiêu chuẩn luật sư phù hợp với các yêu cầu, điều kiện cụ thể của sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhưng phải bảo đảm đáp ứng các chuẩn mực về mặt chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, phù hợp với điều kiện hành nghề của luật sư trong khu vực và trên thế giới;
- Đề cao trách nhiệm cá nhân của luật sư, nâng cao vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với nghề luật sư; phân biệt rõ quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư;
- Từng bước hoàn chỉnh hệ thống văn bản điều chỉnh nghề luật sư, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nghề luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập khu vực và quốc tế.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế luật sư ở nước ta. Pháp lệnh được ban hành trong bối cảnh chúng ta đang triển khai xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và đã thể hiện được chủ trương của Đảng ta về cải cách tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung, luật sư nói riêng. Tuy nhiên, để hoàn thiện về tổ chức luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư thì cần sớm nghiên cứu xây dựng một đạo luật về luật sư, trong đó cần giải quyết 3 vấn đề chính là tiêu chuẩn luật sư, hình thức hành nghề luật sư và quản lý hành nghề luật sư.
- Tiêu chuẩn luật sư: Trên thế giới, việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do các nhà chuyên nghiệp bởi vì họ là những người am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật và có kỹ năng nghề nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng tư pháp, việc thực hiện các dịch vụ pháp lý phải là luật sư. Một số nước còn quy định rõ trong luật về sự độc quyền tham gia tố tụng của luật sư trước toà.
ở Việt Nam, luật sư là một nghề đòi hỏi rất cao về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Muốn trở thành luật sư phải có bằng cử nhân luật, qua đào tạo nghề, qua thời gian tập sự, thi đỗ kỳ thi hết tập sự mới được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và mới có quyền hành nghề luật sư. Trong khi đó, những người khác, pháp luật không đòi hỏi ở họ hoặc đòi hỏi thấp hơn so với luật sư điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ năng nghề nghiệp mà vẫn được tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật tố tụng, ngoài luật sư còn có sự tham gia của những người khác không phải là luật sư để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác. Đội ngũ luật sư ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, thực tế cũng khẳng định vai trò của luật sư trong xã hội và việc thực hiện các dịch vụ pháp lý chủ yếu là luật sư. Vì vậy, đã đến lúc cần chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá hoạt động dịch vụ pháp lý, hạn chế những người không có trình độ nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề dịch vụ pháp lý được tham gia tố tụng và tiến tới chỉ có luật sư mới được tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác thì mới nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tư pháp.
- Hình thức hành nghề luật sư: Về hình thức tổ chức hành nghề luật sư được quy định tại Điều 3 và Điều 17 của Pháp lệnh Luật sư, theo đó luật sư có thể tự mình thành lập Văn phòng luật sư của riêng mình, cùng với các luật sư khác thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh. Để phù hợp với tình hình mới sau khi Luật Doanh nghiệp đã được ban hành và đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế về dịch vụ pháp lý, Pháp lệnh Luật sư quy định Công ty luật hợp danh là hình thức hành nghề của luật sư. Song vì Công ty được quan niệm là hình thức kinh doanh không phù hợp với hoạt động tham gia tố tụng, đặc biệt với điều kiện của Việt Nam, nên Pháp lệnh quy định Công ty luật hợp danh được thực hiện tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng (khoản 2 Điều 18 của Pháp lệnh Luật sư). Đó là sự khác nhau cơ bản giữa Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp danh. Đây là vấn đề đang còn có ý kiến chưa đồng tình, cho rằng không nên có sự phân biệt lĩnh vực hành nghề giữa Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp danh, vì vậy cần mở rộng phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư, cho phép Công ty luật hợp danh được cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp nếu có Chứng chỉ hành nghề kinh doanh dịch vụ pháp lý thì có thể thành lập các hình thức kinh doanh được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức hành nghề của luật sư. Luật sư có thể lựa chọn các hình thức hành nghề phù hợp mà không bị hạn chế bởi hình thức hành nghề là Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh. Luật sư là một nghề trong xã hội, là một hoạt động dịch vụ mang tính chất kinh doanh do đó có quyền lựa chọn các hình thức kinh doanh theo quy định của pháp luật để hành nghề. Ngoài ra cần mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, cho phép luật sư được hành nghề độc lập dưới hình thức làm thuê cho các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức với tư cách là luật sư riêng.
- Quản lý hành nghề luật sư: Trong thời gian tới cần nghiên cứu và xác định rõ mô hình tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư trên phạm vi toàn quốc. Phân biệt rõ việc quản lý nhà nước với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư: Nhà nước quản lý khâu nào, quản cái gì và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý khâu nào, quản cái gì? Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý tổ chức và hành nghề luật sư bằng việc công nhận, cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hành nghề của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư có chức năng giám sát việc tuân theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư. Luật sư chịu trách nhiệm pháp luật trước các cơ quan nhà nước và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp trước các tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với hoạt động nghề nghiệp của mình.
Cần xây dựng một văn bản pháp luật điều chỉnh chung cho cả luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, khắc phục tình trạng cát cứ như hiện nay. Phải coi luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam là một bộ phận của luật sư hành nghề tại Việt Nam, phải tạo cho họ một sân chơi chung, dần dần nội địa hoá các tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, hướng tới không chỉ cho phép họ thuê luật sư Việt Nam mà còn có thể để các luật sư Việt Nam thay thế luật sư nước ngoài điều hành các công ty luật quốc tế hành nghề tại Việt Nam.
1. Xem Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 23.
2. Xem sách đã dẫn, tr. 128.
3. Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 1996, T2. tr.132.
TS. Nguyễn Văn Tuân - Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật
Theo Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp