Dùng tình cảm để hóa giải mâu thuẫn
Bản Lầu là xã biên giới (giáp ranh với Trung Quốc) của huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Đường vào xã xanh ngút ngàn những nương dứa trải dài trên sườn núi. Hơn 10 năm trước, nơi đây vẫn còn hoang sơ, kinh tế chưa phát triển, cuộc sống người dân còn gặp nhiều khó khăn thì nay đã “thay da đổi thịt” với những mái nhà ngói đỏ, đường bê tông, đường nhựa trải dài khắp thôn xóm.
Hỏi thăm nhà của chị Lục Kim Phương, không ai là không biết. Bởi chị Phương được ví như “Bao Công”, phân xử, hóa giải những mâu thuẫn vợ - chồng, mẹ - con, hàng xóm láng giềng… của người dân nơi đây. Chị còn là “chị Thanh Tâm” – chuyên gia gỡ rối tình cảm, trút bầu tâm sự… Nhờ sự tín nhiệm đó, dù muốn nghỉ hưu sớm, chị cũng không được dân làng chấp nhận. Bởi trong mắt mọi người, không ai xứng đáng là Trưởng thôn kiêm Tổ trưởng Tổ hòa giải thôn Na Mạ 1 (xã Bản Lầu) hơn chị.
Chị Phương tâm sự, hơn chục năm trước, chị đã tham gia tổ hòa giải. Khi đó, chị là thành viên Chi hội phụ nữ thôn, sau là Trưởng ban công tác mặt trận. Học tập kinh nghiệm của thế hệ đi trước, sau mỗi buổi hòa giải dù thành công hay thất bại, chị Phương đều tự đúc kết được kinh nghiệm cho mình.
Theo chị Phương, trong mỗi vụ việc cần hòa giải, qui định pháp luật là hàng đầu, sau đó đến phong tục tập quán của địa phương. Ngoài ra, yếu tố quan trọng không kém là tình người cùng lập luận sắc bén. Như vậy mới thuyết phục được hai bên có tranh chấp chấp nhận hòa giải vì thấy Tổ hòa giải nói “có lý, có tình”.
“Để thuyết phục được các bên, trước khi đưa vụ việc ra Tổ hòa giải, mình luôn là người đầu tiên tìm hiểu ngọn ngành của sự việc, mâu thuẫn. Sau đó, mình gặp riêng từng bên để nghe họ nói. Từ đó, mình vận dụng các qui định của pháp luật, kiến thức thực tiễn, phân tích cho cả hai cùng hiểu vấn đề để từ đó mỗi bên nhường nhau một chút, giữ tình làng nghĩa xóm, tình cảm gia đình”, chị Phương nói và cho biết các vụ hòa giải mà chị và Tổ hòa giải làm chủ yếu là các vụ liên quan đến tranh chấp đất đai, mâu thuẫn mẹ con, vợ chồng.
Chị Phương kể đầu năm nay, chị B. – người địa phương hớt hải tới tìm chị nhờ hòa giải giúp mâu thuẫn giữa hai vợ chồng. Số là vợ chồng chị B. làm kinh doanh, có của ăn của để. Do hai vợ chồng thường xuyên vắng nhà nên họ không dám để toàn bộ tài sản trong két sắt mà cất giấu mỗi nơi một ít. Một ngày kia, người vợ phát hiện mỗi chỗ giấu tiền bị thiếu một ít nên truy vấn chồng lấy tiền làm gì. Anh chồng nói mình không lấy khiến hai bên lời qua tiếng lãi, cãi chửi nhau. Người chồng bực tức đuổi vợ ra khỏi nhà trong đêm rồi đóng cửa lại.
Sau khi nghe câu chuyện của chị B. xong, chị Phương phân tích cho chị B. hiểu mất hàng chục triệu đồng, ai cũng xót vì đó là tiền mồ hôi nước mắt, chắt chiu tiết kiệm mới có. Tuy nhiên, chị B. không nên vì thế mà nặng lời với chồng, cần hỏi chồng một cách khéo léo, tế nhị hơn. Hai vợ chồng cũng không nên xung đột với nhau, điều ấy ảnh hưởng tới chuyện học hành của các con. Không người con nào có thể chuyên tâm học hành khi thấy cha mẹ cãi vã, đuổi nhau ra khỏi nhà. Việc hai vợ chồng cãi vã sẽ lộ ra chỗ cất tiền, kẻ xấu mà vô tình nghe thấy, hậu quả sẽ như thế nào…
“Sau khi phân tích cho người vợ hiểu, mình cũng gặp người chồng nói chuyện. Anh chồng thừa nhận có hơi nóng giận. Giờ thì cặp đôi ấy hạnh phúc lắm”, chị Phương vui vẻ cho biết. Thế nên, dù đêm khuya, gà gáy, mỗi khi thấy ai cần mình, chị Phương đều không quản mưa gió, sương đêm, xuống tận nơi giúp đỡ mọi người. Chị Phương tâm niệm phải luôn cố gắng để bà con dân bản được bình yên, hạnh phúc. Do đó, dù phải đi cả đêm, chị cũng không ngại.
Mà chuyện đi cả đêm đôi khi xảy ra như cơm bữa với chị Phương. Bởi hầu hết các buổi hòa giải đều diễn ra vào buổi tối hay những vụ việc liên quan tới bạo lực gia đình thường diễn ra đêm khuya. Có những vụ, người vợ kiên quyết không cho các chị về vì “nếu các chị về, chồng em giết em thì sao”… “Thế là cả đêm mình ở dưới đó để động viên, sau đó còn tìm chỗ cho người vợ ở tạm. Sắp xếp xong thì cũng sang ngày mới”, chị Phương chia sẻ.
Lời bài hát khiến nhiều người bật khóc
Cái nghiệp “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” đầy vất vả, khó khăn nhưng chị Phương chưa bao giờ chùn bước. Chị sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, góp ý cho các thành viên trong tổ hòa giải do chị phụ trách để có thể giúp được người dân nhiều hơn.
Từ năm 2019 đến nay, chị Phương và hòa giải viên trong Tổ của chị Phương đã tiếp nhận và tiến hành hòa giải được 16 vụ việc, trong đó hòa giải thành 15 vụ. Bên cạnh đó, Tổ hòa giải thôn Na Mạ 1 còn phối hợp với Tổ hòa giải thôn Na Mạ 2 tổ chức hòa giải thành 3 vụ việc tranh chấp đất giữa người dân 2 thôn với nhau. Ngoài ra, bản thân chị Phương và các thành viên khác còn tự hòa giải rất nhiều vụ việc thành công mà chưa cần đưa ra Tổ hòa giải hoặc phải đưa ra xã.
Theo lời chị Phương, việc hòa giải đã ăn sâu vào máu thịt, trở thành bản năng của chị. Chị luôn sẵn lòng lắng nghe những chia sẻ của mọi người về cuộc sống, gia đình, sau đó chị tìm cách gỡ rối giúp họ. “Từ chuyện thầm kín tới chuyên gia dinh dưỡng, sinh sản hay nhạc sĩ dù chẳng được học nốt nhạc nào. Kinh nghiệm mình đúc kết từ thực tiễn, qua tìm hiểu và đọc sách báo”, chị Phương dí dỏm.
Ngày ấy, khi đang làm công tác dân số, chị Phương đã còn sáng tác bài hát bằng tiếng dân tộc với nội dung xoáy vào lòng người: “Cùng nhau đi kế hoạch hóa gia đình để nuôi dạy con cái tốt hơn; người phụ nữ đẻ nhiều sẽ vất vả, không có thời gian chăm sóc con đến nơi đến chốn; đông con sẽ không lo cho các con ăn học tới nơi, tới chốn…”. “Quá trình đội văn nghệ thôn vừa múa vừa hát bài hát ấy, rất nhiều người già của thôn đến nghe. Nghe xong, các cụ không bắt con dâu của mình đẻ thêm nữa. Các cụ nói: “Nghe bài hát ấy xong, nước mắt chúng tôi cứ chảy ra thôi. Người phụ nữ sao khổ thế”, chị Phương bồi hồi nhớ lại.
Nhờ những đóng góp của mình, chị Phương từng được Sở y tế tỉnh Lào Cai tặng Bằng khen. Mới đây nhất, năm 2021, chị Phương được Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong sơ kết giai đoạn 1 thực hiện Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 – 2022” trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
Nhờ “phiên dịch” tham gia hòa giải cùng
“Bản Lầu là xã vùng biên có 6 dân tộc cư trú: H’Mông, Giáy, Tu Dí, Phù Lá, Thu Nao, Nùng. Thế nên, nếu có vụ tranh chấp mà hai bên là người của hai dân tộc khác nhau, không thông thạo tiếng phổ thông, Tổ hòa giải sẽ nhờ người hiểu rõ cả hai tiếng địa phương phiên dịch lại giúp”, chị Phương cho biết.