Ngày 07/11/2024, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp về kết quả lãnh đạo, chỉ đạo và phương hướng thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp nhân dịp kỷ niệm Ngày Pháp luật Việt Nam. Tham dự buổi làm việc với đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm có các đồng chí: Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương; Nguyễn Duy Ngọc, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Nguyễn Khắc Định, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; Lê Thành Long, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ và đại diện lãnh đạo một số bộ, ban, ngành Trung ương.
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, công tác tư pháp được triển khai toàn diện, với tinh thần đổi mới, đạt nhiều kết quả tích cực. Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp trân trọng báo cáo đồng chí Tổng Bí thư về kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay, phương hướng đến hết nhiệm kỳ. Cụ thể như sau:
A. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; thi hành án dân sự (THADS), thi hành án hành chính (THAHC), bồi thường nhà nước, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, công tác pháp chế; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý với
38 nhóm nhiệm vụ cụ thể. Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp hiện có 07 đồng chí, trong đó đồng chí Bí thư là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, 01 Phó Bí thư và 05 Ủy viên; Lãnh đạo Bộ gồm 06 đồng chí, trong đó có Bộ trưởng và 05 Thứ trưởng. Đảng ủy Bộ có đồng chí Bí thư và 01 Phó Bí thư; Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ có 24 đồng chí; Ban Thường vụ có 06 đồng chí. Bộ Tư pháp hiện có
30 đơn vị gồm Văn phòng, Thanh tra,
01 Tổng cục,
07 Vụ,
10 Cục và
10 đơn vị sự nghiệp. Hệ thống THADS gồm Tổng cục thuộc Bộ,
63 Cục THADS cấp tỉnh và
702 Chi cục THADS cấp huyện
[1].
Tại địa phương có Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã. Các bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có tổ chức, cán bộ làm công tác pháp chế
[2]. Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ công tác tư pháp, pháp chế.
B. TÌNH HÌNH LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA BỘ, NGÀNH TƯ PHÁP TỪ ĐẦU NHIỆM KỲ ĐẾN NAY, PHƯƠNG HƯỚNG ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ
I. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng luôn bám sát các văn bản, chỉ đạo của Trung ương và có nhiều đổi mới. Ban cán sự đảng, Đảng ủy, tập thể Lãnh đạo Bộ Tư pháp có truyền thống đoàn kết, thống nhất; phân công trách nhiệm rõ ràng và hoạt động theo đúng Quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch công tác; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, bảo đảm tính công khai, dân chủ và công tâm. Vai trò, trách nhiệm của từng thành viên Ban cán sự đảng, Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ được phát huy trong lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực được phân công phụ trách. Sự phối hợp giữa Ban cán sự đảng với Đảng ủy Bộ được duy trì thường xuyên, chặt chẽ, nhịp nhàng và luôn có sự thống nhất cao.
Từ đầu nhiệm kỳ, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình công tác toàn khóa; hằng năm đều ban hành Chương trình công tác cụ thể để lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của Bộ, ngành Tư pháp, trong đó xác định rõ các nhóm nhiệm vụ trọng tâm và cụ thể hóa thành nhiều đầu việc để lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc quán triệt, tổ chức thực hiện, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ, xây dựng Ngành và công tác kiểm tra, giám sát. Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều phiên họp, hội nghị, qua đó ban hành
118 nghị quyết, kết luận
[3] để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành. Riêng năm 2024, ngoài Chương trình công tác của tập thể Ban cán sự đảng, từng Thành viên Ban cán sự đảng đều ban hành Kế hoạch cá nhân để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, lĩnh vực công tác được giao. Nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng có vai trò định hướng quan trọng trong triển khai các nhiệm vụ công tác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp như: Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Nghị quyết về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật
[4]; Nghị quyết về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, theo dõi THAHC giai đoạn 2022 – 2026
[5]; Nghị quyết về những định hướng lớn về công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp đến năm 2030
[6];… Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và quán triệt các chủ trương, định hướng của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật được Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ tập trung triển khai đến cấp ủy, Thủ trưởng các đơn vị và các đảng viên, công chức của Bộ Tư pháp; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức kiện toàn bộ máy và công tác cán bộ bảo đảm thực hiện đúng chủ trương của Đảng và quy định pháp luật, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Bộ, các đơn vị thuộc Bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp được giao.
II. Tình hình thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay
Bám sát Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các định hướng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng tổ chức thi hành pháp luật, cải cách tư pháp; các Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổng kết và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị liên quan đến các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp; chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã bám sát, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác tư pháp của Bộ, Ngành. Theo đó, trên cơ sở chỉ đạo của Ban cán sự đảng, Bộ, ngành Tư pháp đã kịp thời ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30/8/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; ban hành các chương trình, kế hoạch cụ thể gắn với yêu cầu, phương châm hành động và các mục tiêu, nhiệm vụ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP hằng năm của Chính phủ; đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực, quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao, đồng hành cùng cả hệ thống chính trị trong phòng, chống dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, cải cách tư pháp, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kết quả công tác trong các lĩnh vực cụ thể như sau:
1. Công tác xây dựng và thi hành pháp luật
1.1. Công tác xây dựng pháp luật
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật là một trong ba đột phá chiến lược tiếp tục được xác định tại Đại hội XIII của Đảng, luôn được Bộ, ngành Tư pháp xác định là lĩnh vực công tác trọng tâm hàng đầu, ưu tiên, tập trung mọi nguồn lực thực hiện nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 của đất nước.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban cán sự đảng ban hành 31 Nghị quyết, kết luận về công tác xây dựng pháp luật, tổ chức 05 buổi làm việc với các đơn vị xây dựng pháp luật để có các định hướng các vấn đề lớn và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng pháp luật. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng, Bộ, ngành Tư pháp đã tham gia tích cực, có chất lượng vào việc xây dựng các văn bản của Đảng, Quốc hội, Chính phủ để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có những chủ trương, chính sách lớn về công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật như: Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kêt luận số 19-KL/TW và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật,...
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tham mưu Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đề nghị về xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm. Trên cơ sở đó, UBTVQH đã trình Quốc hội thông qua các Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh với tỷ lệ thống nhất cao (đều trên 90%); phối hợp với các bộ, ngành tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua
43 luật,
19 nghị quyết quy phạm
(riêng Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng 03 luật), kịp thời thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu, định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó, có nhiều dự án luật, nghị quyết với chính sách lớn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Để công tác xây dựng pháp luật đạt hiệu quả cao, Bộ Tư pháp cùng với Văn phòng Chính phủ tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên dành nhiều thời gian cho công tác xây dựng pháp luật, thảo luận và cho ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) tại các Phiên họp thường kỳ và Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, qua đó xác định nhiều phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến mạnh mẽ công tác xây dựng pháp luật.
Công tác thẩm định
[7] đề nghị xây dựng, dự án, dự thảo VBQPPL luôn được chú trọng nâng cao chất lượng, đẩy nhanh về tiến độ; nhiều ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp được các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành VBQPPL đánh giá cao, coi là ý kiến quan trọng để quyết định ban hành văn bản. Với sự tham mưu chặt chẽ của Bộ Tư pháp, trên 90% dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình được Quốc hội, UBTVQH xem xét, thông qua với số lượng ngày càng tăng
[8]. Hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh được các bộ, ngành chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng và ngày càng chất lượng; quy trình tham mưu soạn thảo, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền VBQPPL đảm bảo kịp thời, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động tổng kết thi hành VBQPPL, truyền thông chính sách, nhất là các chính sách có tác động lớn tới xã hội; bảo đảm hoạt động lấy ý kiến đề nghị, dự án, dự thảo VBQPPL ngày càng thực chất, trên tinh thần cầu thị, lắng nghe, kể cả ý kiến phản biện, trái chiều và tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến góp ý từ các cơ quan, tổ chức, Nhân dân.
Tại địa phương, các Sở Tư pháp thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ “gác cổng” cho UBND cấp tỉnh về các vấn đề pháp lý, từng bước tham mưu cấp ủy, chính quyền xây dựng và hoàn thiện khá toàn diện các VBQPPL trên các lĩnh vực. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, các địa phương đã ban hành tổng số
14.817 VBQPPL cấp tỉnh,
8.901 VBQPPL cấp huyện và
6.595 VBQPPL cấp xã
[9].
Các công cụ kiểm soát, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật như kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật tiếp tục được tăng cường và ngày càng được thực hiện bài bản. Công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn và gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL. Từ năm 2021 đến nay, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận, phân loại để kiểm tra đối với
15.979 văn bản
[10], qua đó, đã kết luận, kiến nghị xử lý đối với các văn bản có quy định trái pháp luật về thẩm quyền, nội dung. Việc thực hiện rà soát VBQPPL được tiến hành thường xuyên, trọng điểm theo các đợt, các kế hoạch rà soát chuyên đề, qua đó giúp nhận diện, đánh giá những mâu thuẫn, vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp, từ đó đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bộ Tư pháp đã tham mưu triển khai hiệu quả hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát VBQPPL
[11], Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống VBQPPL
[12] nhằm khẩn trương rà soát, xử lý các vướng mắc, bất cập trong các quy định pháp luật, đề xuất Chính phủ báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV xem xét, ban hành 02 luật sửa đổi 13 luật để tháo gỡ kịp thời các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, cản trở sự phát triển.
Công tác hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL được Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế bộ, ngành tiếp tục quan tâm, chú trọng triển khai thực hiện; công tác pháp điển QPPL đạt kết quả tích cực, hoàn thành sớm so với kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, góp phần tích cực trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp cho người dân, doanh nghiệp, tổ chức dễ dàng hơn trong tiếp cận, áp dụng các quy định của pháp luật.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được xây dựng, đưa vào sử dụng từ năm 2013 nhằm cung cấp chính xác, kịp thời văn bản phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, phổ biến pháp luật, nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; khắc phục được tình trạng trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ sở dữ liệu về VBQPPL của bộ, ngành, địa phương. Đến nay, các Bộ, ngành, địa phương đã cập nhật
132.575 văn bản trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật
[13].
1.2. Công tác thi hành pháp luật
Để nâng cao kết quả thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ, UBTVQH tổ chức 03 Hội nghị triển khai thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay; phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ chú trọng đôn đốc, theo dõi, hướng dẫn các bộ, ngành thực hiện tốt Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; xây dựng, trình ban hành các văn bản quy định chi tiết, góp phần giảm thiểu đáng kể tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh so với trước.
Việc lập danh mục, phân công, soạn thảo văn bản quy định chi tiết và ban hành kế hoạch triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết được thực hiện bài bản; việc theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết được thực hiện thường xuyên với nhiều giải pháp tương đối hiệu quả nhằm kịp thời đưa các quy định mang tính chất “định khung” trong luật, pháp lệnh trở nên linh hoạt, dễ áp dụng, dễ thi hành trong thực tiễn. Trên cơ sở kết quả các Kỳ họp Quốc hội từ đầu nhiệm đến nay, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành
09 quyết định về việc ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành
158 văn bản (
67 nghị định
13 quyết định,
78 thông tư) quy định chi tiết.
Công tác theo dõi thi hành pháp luật tiếp tục được Bộ, ngành Tư pháp triển khai thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bám sát các lĩnh vực trọng tâm, liên ngành của từng năm
[14], thể chế về theo dõi tình hình thi hành pháp luật tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện; hoạt động kiểm tra và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác này được tăng cường.
2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) có nhiều đổi mới theo phương châm hướng về cơ sở và phát huy sự vào cuộc thực chất của cả hệ thống chính trị; trong thực hiện đã gắn chặt với công tác tuyên giáo và công tác dân vận; phát huy vai trò của lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân tham gia PBGDPL và vận động nhân dân chấp hành, tuân thủ pháp luật nên đã đạt được nhiều kết quả tích cực; ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân có bước chuyển biến tích cực, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, an ninh trật tự và phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động PBGDPL được thực hiện chủ động với nhiều mô hình hay, cách làm mới, sáng tạo, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, kịp thời đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Nhiều cuộc thi tìm hiểu về Hiến pháp và pháp luật đã thu hút được đông đảo người dân tham gia; các hoạt động đối thoại về chính sách, pháp luật giữa cơ quan Nhà nước với người dân, doanh nghiệp hay các chương trình, chuyên mục, trò chơi tìm hiểu pháp luật trên sóng phát thanh - truyền hình, phổ biến pháp luật thông qua mạng xã hội… đã giúp người dân tiếp cận thông tin pháp luật nhanh chóng, tiện lợi
[15]. Thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là việc triển khai các hoạt động kỷ niệm Ngày Pháp luật Việt Nam hằng năm, vai trò của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao.
Hiện nay, Bộ Tư pháp tích cực triển khai các đề án quan trọng về PBGDPL đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, nhất là Đề án
“Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL giai đoạn 2022 - 2027”; triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Bộ Tư pháp năm 2024.
3. Công tác thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính
Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Hệ thống cơ quan THADS tiếp tục triển khai hiệu quả Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; Kết luận số 05-KL/TW ngày 03/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đã ban hành nhiều Nghị quyết, Kế hoạch liên quan đến công tác THADS, theo dõi THAHC, trong đó có Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022 về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm THADS, theo dõi THAHC giai đoạn 2022 - 2026
[16]. Bộ Tư pháp đã đề ra các giải pháp toàn diện để đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, trong đó, tập trung chỉ đạo thi hành các vụ việc trọng điểm; thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát; thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng; rút ngắn thời gian thi hành án; giảm thiểu vi phạm trong hoạt động THADS.
Kết quả THADS liên tục tăng qua các năm, năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay, nhất là thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến 30/9/2024, các cơ quan THADS đã thi hành xong
2.231.030 việc, với trên
328.423 tỷ đồng. Kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế: Đã thi hành xong hơn
16.067 việc, với hơn
62.666 tỷ đồng.
Trong công tác theo dõi THAHC, các cơ quan THADS đã thực hiện nghiêm trách nhiệm, chức năng theo dõi THAHC theo quy định của Luật Tố tụng hành chính và các khuyến nghị qua hoạt động giám sát của Quốc hội. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thi hành
3.456 bản án, quyết định về vụ án hành chính; kết quả, đã thi hành xong
2.362 bản án, quyết định.
4. Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, bồi thường nhà nước, xử lý vi phạm hành chính
Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; lý lịch tư pháp; nuôi con nuôi; đăng ký biện pháp bảo đảm; bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, bồi thường nhà nước tiếp tục được tăng cường theo hướng ngày càng hoàn thiện về thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, chuẩn hóa các quy trình, thủ tục theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện hơn cho người dân, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi sổ, bám sát kế hoạch và nhiệm vụ được giao tại Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 11/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về “Tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2024 và những năm tiếp theo”. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ từ đầu nhiệm kỳ đến nay có nhiều điểm sáng như:
(i) Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực có nhiều bước đột phá, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong thực hiện thủ tục hành chính (TTHC), đáp ứng yêu cầu cải cách TTHC, góp phần đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số giai đoạn 2022-2030. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử tiếp tục được hoàn thiện với
96.047.450 dữ liệu hộ tịch các loại
[17];
63/63 địa phương đã cung cấp dịch vụ công: Đăng ký khai sinh; Đăng ký khai tử; Đăng ký kết hôn trên Cổng Dịch vụ công của tỉnh/thành phố kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia;
63/63 địa phương triển khai kết nối liên thông dữ liệu giữa Cổng Dịch vụ công/Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh với Hệ thống đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử.
(ii) Trong lĩnh vực quản lý lý lịch tư pháp (LLTP), đến nay, Cơ sở dữ liệu LLTP đã được chia sẻ, kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để xác định, chia sẻ thông tin bảo đảm thực hiện cấp Phiếu LLTP theo yêu cầu của người dân. Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Công an và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP trên Ứng dụng định danh quốc gia VneID trên toàn quốc từ ngày 01/10/2024; thực hiện rà roát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu LLTP trong các lĩnh vực của ngành Tư pháp.
(iii) Trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm, Hệ thống đăng ký trực tuyến đã đạt yêu cầu cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, tỷ lệ đăng ký trực tuyến chiếm đến 87%. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp là một trong 11 cơ quan nhà nước được vinh danh nhận giải thưởng cơ quan Nhà nước chuyển đổi số xuất sắc với sản phẩm Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản
[18].
(iv) Trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, thừa phát lại ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhiều hoạt động có tính đột phá nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, phù hợp với cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, nhu cầu ngày càng cao của xã hội
[19], góp phần quan trọng làm cho các hoạt động của hệ thống tư pháp được khách quan, nhanh chóng và đúng pháp luật; bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Đến nay, cả nước có hơn
5.400 tổ chức hành nghề luật sư với
18.200 luật sư hoạt động; có
1.425 tổ chức hành nghề công chứng với
3.372 công chứng viên;
512 tổ chức đấu giá tài sản với
1.169 đấu giá viên;
719 tổ chức giám định tư pháp
[20] với
7.136 người giám định viên tư pháp và
2.621 người giám định tư pháp theo vụ việc;
207 Văn phòng Thừa phát lại với
422 thừa phát lại đang hành nghề; hơn
69 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang hoạt động với
301 quản tài viên hành nghề với tư cách cá nhân. Pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp tiếp tục được chú trọng hoàn thiện
[21]; công tác thanh tra, kiểm tra các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp được tăng cường, qua đó kịp thời chấn chỉnh, xử lý các vi phạm.
Bộ Tư pháp tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; Kết luận số 69-KL/TW ngày 24/2/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; báo cáo định kỳ kết quả thực hiện Kết luận số 69-KL/TW năm 2022, chủ động, thường xuyên phối hợp với cơ quan an ninh nắm bắt, theo dõi, xử lý các vấn đề phức tạp, phát sinh trong tổ chức, hoạt động của luật sư.
Trong lĩnh vực giám định tư pháp, thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác giám định tư pháp bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng kết tình hình triển khai, thực hiện Luật Giám định tư pháp và Đề án
“Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”; tổ chức các đoàn kiểm tra về công tác giám định tư pháp tại các địa phương; hiện đang nghiên cứu, xây dựng chính sách để đề xuất với các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định về Luật Giám định tư pháp.
(v) Trợ giúp pháp lý là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu của ngành Tư pháp; được triển khai đồng bộ trong cả 03 Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, thể hiện vai trò tích cực trong an sinh và phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, vai trò, tính chuyên nghiệp của trợ giúp viên pháp lý ngày càng được nâng cao; số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng tăng liên tục hằng năm, trong đó năm 2023 đạt mốc cao nhất từ trước tới nay
[22], qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các nhóm người yếu thế, dễ tổn thương khác.
(vi) Công tác bồi thường nhà nước được thực hiện hiệu quả, thiết lập cơ chế pháp lý minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và quyền, lợi ích của Nhà nước; từng bước nâng cao trách nhiệm của người thi hành công vụ, hiệu lực, hiệu quả nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[23].
(vii) Công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi được tập trung thực hiện với mục tiêu lấy quyền trẻ em, trẻ em làm trung tâm trong triển khai thực hiện mọi nhiệm vụ, qua đó, đã giúp nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tìm được gia đình thay thế, thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn của công tác này. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ, ngành Tư pháp đã giải quyết
9.880 trường hợp nuôi con nuôi trong nước và
745 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; trẻ em được giải quyết làm con nuôi có sự phát triển tốt về thể chất và tinh thần, hòa nhập tốt vào gia đình và môi trường sống mới.
(viii) Công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) được tăng cường thông qua việc tích cực rà soát, sửa đổi, bổ sung nhiều Nghị định quy định xử lý VPHC trong các lĩnh vực cụ thể; tập trung hướng dẫn thi hành pháp luật về xử lý VPHC; kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC; tiếp tục xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý VPHC bảo đảm khả thi, hiệu quả, đúng quy định pháp luật.
5. Công tác pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế về pháp luật
Công tác pháp luật quốc tế được Bộ Tư pháp thực hiện bài bản trên cơ sở chú trọng thực hiện tốt nhiệm vụ, vai trò trong lĩnh vực tư pháp quốc tế và đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế trên cơ sở Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg ngày 08/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế; phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Chính phủ xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong hội nhập quốc tế, tham gia đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước, thỏa thuận, cam kết quốc tế
[24].
Hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp được thúc đẩy mạnh mẽ trên cả 3 bình diện toàn cầu, khu vực và song phương trên cơ sở bám sát định hướng, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ trọng tâm công tác của Bộ, ngành Tư pháp
[25] góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác chuyên môn, nâng cao hình ảnh, vị thế của đất nước. Công tác đối ngoại nhân quyền tiếp tục được quan tâm thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; quản lý nhà nước đối với hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp được tăng cường từ hoàn thiện thể chế
[26] đến tổ chức thi hành, bảo đảm không bị can thiệp,
“hướng lái” trong xây dựng pháp luật. Triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW và Kết luận số 73-KL/TW của Ban Bí thư, Bộ Tư pháp đã thực hiện có trách nhiệm các nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 73-KL/TW của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; đã tham mưu xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định mới về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật, qua đó góp phần định hướng các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
6. Công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, tư pháp; nghiên cứu khoa học pháp lý
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Bộ, ngành Tư pháp quan tâm chú trọng, tập trung vào nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ, trình độ chuyên môn và ngoại ngữ theo khung năng lực vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý và yêu cầu hội nhập quốc tế
[27]. Bộ đã ban hành và tăng cường thực hiện các chiến lược, quy hoạch, đề án về đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức của Bộ, Ngành trong đó chú trọng triển khai Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức có trình độ chuyên sâu về pháp luật đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của Bộ, ngành tiếp tục được nâng cao; đội ngũ công chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu trong một số lĩnh vực công tác trọng yếu của Bộ Tư pháp đang được hình thành và làm tiền đề xây dựng đội ngũ chuyên gia trong lương lai.
Công tác đào tạo các chức danh tư pháp và nguồn nhân lực có kiến thức pháp luật cho xã hội được quan tâm thường xuyên, ngày càng mở rộng về quy mô và nâng cao về chất lượng. Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
[28] 02 Đề án tạo cơ sở thúc đẩy công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, nhất là nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
[29]; công tác tuyển sinh, đào tạo tại Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp và các trường Cao đẳng Luật được chú trọng về chất lượng, cơ bản đạt và vượt các chỉ tiêu được giao. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được các cơ sở đào tạo thực hiện một cách chủ động, linh hoạt, hiệu quả; thường xuyên rà soát, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng hồ sơ tình huống theo đúng nội dung chỉ đạo và tinh thần cải cách tư pháp của Đại hội Đảng lần thứ XIII. Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án kiểm soát chất lượng đào tạo, rà soát, đánh giá, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo luật không đủ uy tín, chất lượng.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần cung cấp các cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp
[30]. Qua đó, góp phần từng bước hoàn thiện tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
7. Về kiện toàn tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế và các cơ quan tư pháp địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Bộ Tư pháp tiếp tục tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy theo đúng tinh thần các nghị quyết Trung ương, nghị quyết, quyết định của Chính phủ về đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
[31]; đổi mới hệ thống tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản, đề án tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật theo yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, trong đó có những văn bản được ban hành sớm so với các bộ, ngành khác
[32]; rà soát tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch tại 63 địa phương làm cơ sở đánh giá tiêu chuẩn, trình độ của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch báo cáo Chính phủ để phục vụ tổng kết 6 năm thi hành Luật Hộ tịch.
Toàn Ngành tiếp tục tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chuyên môn ở các cấp, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ ngành Tư pháp được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội Khóa XV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2021-2026 và xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2026-2031 được Bộ, ngành Tư pháp quan tâm thực hiện, đảm bảo chặt chẽ, khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch. Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, luân chuyển, chuyển đổi vị trí việc làm được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định. Công tác bình đẳng giới, quản lý nhà nước về thanh niên được quán triệt và thực hiện kịp thời, đồng bộ trong toàn Ngành.
* Đánh giá chung:
Với vai trò tham mưu của Bộ, ngành Tư pháp, công tác xây dựng pháp luật được thực hiện quyết liệt, khẩn trương với tinh thần đổi mới, góp phần xây dựng, hình thành nên một hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là phương tiện để bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ hội nhập quốc tế. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện, ngày càng gắn kết hơn với xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Công tác THADS, theo dõi THAHC, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, bồi thường nhà nước,… tiếp tục được thực hiện bài bản, nền nếp và ngày càng hiệu quả, sát thực tiễn hơn với nhiều mô hình mới, cách làm hay, tăng cường cải cách hành chính, chuyển đổi số.
Kết quả nêu trên đã góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp; giúp cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
III. Một số hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
1. Hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả tích cực nói trên, trong thực tiễn chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp nhận thấy công tác tư pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay còn có những tồn tại như:
- Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chậm sửa đổi, bổ sung, thay thế, chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội. Quy trình xây dựng pháp luật còn bất cập, rườm rà, chưa rõ trách nhiệm đầu mối, chưa gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo, đánh giá tác động chính sách chưa thực chất, giá trị văn bản thẩm định còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ trực tiếp soạn thảo, thẩm định VBQPPL nhưng thiếu tư duy, cách tiếp cận thực tiễn.
- Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu. Hoạt động theo dõi thi hành pháp luật ở một số bộ, ngành, địa phương còn mang tính hình thức; tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết đã có hiệu lực vẫn chưa được khắc phục triệt để. Việc thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm về công tác rà soát VBQPPL tại một số cơ quan chưa hiệu quả, đầy đủ, đúng theo quy định; việc xử lý VBQPPL sau rà soát còn chậm, chưa theo kịp với yêu cầu. Thiếu công cụ, cơ chế hữu hiệu để nhận diện bất cập, vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật, dẫn đến phản ứng chính sách, hoàn thiện pháp luật chưa kịp thời.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật thời gian qua có lúc, có nơi vẫn mang tính hình thức, chưa thường xuyên, kịp thời, chưa tạo được hiệu ứng, tác động lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng; ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận người dân chưa cao; tình trạng vi phạm pháp luật vẫn xảy ra, ngay cả trong hoạt động thực thi công vụ của một số cán bộ, công chức, viên chức.
- Hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực THADS, theo dõi THAHC; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp chưa đạt như kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp và xã hội. Số việc thi hành án chuyển kỳ sau trong các năm tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao; số vụ việc THAHC thuộc trách nhiệm của UBND chưa thi hành còn nhiều. Vẫn còn tình trạng vi phạm trong một số lĩnh vực luật sư, công chứng, đấu giá tài sản, lý lịch tư pháp.
- Công tác ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của Bộ, Ngành dù được quan tâm từ sớm nhưng đến nay hiệu quả còn hạn chế.
2. Nguyên nhân
- Thể chế nói chung và công tác xây dựng pháp luật nói riêng luôn được coi là khâu đột phá chiến lược nhưng chưa được quan tâm đầu tư tương xứng. Số lượng công việc ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, yêu cầu ngày càng cao nhưng chế độ, chính sách chưa phù hợp, kinh phí dành cho công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế, không tương xứng tính chất công việc quan trọng, đặc thù.
- Nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế có độ mở lớn, đang trong quá trình chuyển đổi nên cần có thời kỳ quá độ, thời gian chuyển tiếp để quy định pháp luật hoàn thiện, bao phủ và đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Nhu cầu của người dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng tăng trong khi nguồn lực cho công tác này chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật và thực hiện chuyển đổi số phục vụ hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, việc kê biên, phong tỏa tài sản, truy tìm tài sản chưa được quan tâm kịp thời. Cơ chế quản lý, kiểm soát thu nhập cá nhân còn chưa hoàn thiện.
- Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành ở Trung ương, giữa Trung ương với địa phương trong thực hiện công tác tư pháp trong một số trường hợp vẫn còn chưa cao; còn một bộ phận né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện để né tránh thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
IV. Phương hướng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp đến hết nhiệm kỳ
Quán triệt thực hiện nghiêm các Nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, nhất là các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong thời gian qua; trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra từ đầu nhiệm kỳ đến nay, bám sát chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kế thừa, phát huy giá trị truyền thống đã đạt được, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp xác định
06 định hướng, nhiệm vụ công tác của Bộ, Ngành đến hết nhiệm kỳ 2021-2026, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong Kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh. Cụ thể như sau:
1. Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại Văn kiện Đại hội XIII, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, nhất là Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thi hành pháp luật, hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Chủ động tham gia trách nhiệm, hiệu quả trong xây dựng các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, nhất là các yêu cầu về
“đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân...”
2. Tiếp tục tham mưu thực hiện đảm bảo tiến độ, chất lượng Định hướng xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm của Quốc hội, bảo đảm pháp luật vừa là công cụ quản lý hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý để khơi thông mọi nguồn lực, đổi mới sáng tạo, góp phần khơi thông “điểm nghẽn”, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh. Tập trung nghiên cứu, hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành Tư pháp
[33]. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định dự thảo VBQPPL; tăng cường công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Thực hiện hiệu quả công tác truyền thông chính sách trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức PBGDPL, tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác này, gắn kết công tác PBGDPL với công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chú trọng PBGDPL cho đối tượng đặc thù, đưa thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực trong ứng xử của các chủ thể trong xã hội.
3. Tiếp tục thực hiện nghiêm Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; Quyết định số 17/QĐ-TTg ngày 13/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS đối với các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại giai đoạn 2023-2028”. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về THADS, THAHC. Phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS được Quốc hội, Chính phủ giao hằng năm. Tăng cường năng lực, kỷ luật, kỷ cương đội ngũ công chức, người lao động Hệ thống THADS.
4. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng dịch vụ công, chú trọng các dịch vụ công thiết yếu, cơ bản trong các lĩnh vực như hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; trợ giúp pháp lý; bổ trợ tư pháp; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp; đăng ký biện pháp bảo đảm; hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; bồi thường nhà nước;… đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Tập trung rà soát, thực thi các phương án cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, quy định liên quan hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, gắn với thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của ngành Tư pháp theo Đề án số 06 của Thủ tướng Chính phủ.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của Ngành; ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và phần mềm ứng dụng của ngành Tư pháp.
5. Tích cực, chủ động phòng ngừa và tăng cường năng lực giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong hoạt động đầu tư quốc tế; xử lý các vấn đề pháp lý phục vụ hội nhập sâu, rộng của đất nước. Tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối ngoại tại Đại hội XIII của Đảng về hợp tác quốc tế về pháp luật gắn với việc triển khai các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị về công tác đối ngoại như Nghị quyết số 34-NQ/TW, Chỉ thị số 24-CT/TW; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp.
6. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp theo tinh thần "7 dám" (Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung), nhạy bén trong phát hiện những yếu tố mới, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, tư pháp có năng lực, trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
C. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp kính đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đồng chí Tổng Bí thư tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các nội dung sau:
1. Đưa vào Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025 nội dung nghiên cứu xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” để thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị về vai trò, ý nghĩ, tầm quan trọng của công tác xây dựng và thi hành pháp luật trước yêu cầu phát triển mới của đất nước.
2. Đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi và hiệu quả, gắn với phân công rành mạnh, trách nhiệm rõ ràng của từng chủ thể trong từng khâu của quy trình xây dựng chính sách và ban hành văn bản pháp luật.
Phân định khâu xây dựng chính sách và quy phạm hóa chính sách; nghiên cứu tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, bảo đảm chuyên nghiệp, đồng bộ, thống nhất; phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật.
Chú trọng đánh giá tác động chính sách thực chất, chú ý xây dựng cơ chế hiệu quả để tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu tác động, nhất là đối với người dân, doanh nghiệp;
không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và các quy định pháp luật. Thẩm quyền của chủ thể ban hành pháp luật phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy; có hình thức uỷ quyền lập pháp để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành VBQPPL về cơ chế đặc thù, thí điểm tháo gỡ, giải quyết triệt để, kịp thời những khó khăn, vướng mắc và những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn.
3. Xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, gắn với tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, quản trị nhà nước phải dựa trên pháp luật và thông qua các công cụ quản lý hiện đại. Cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL; xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đưa tuân thủ pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của xã hội. Thường xuyên theo dõi, rà soát, đánh giá hiệu quả pháp luật sau ban hành
, xây dựng cơ chế tiếp nhận, phản hồi và xử lý các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp liên quan đến việc thực hiện pháp luật, từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Sớm hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật; xác định rõ quy trình, thủ tục cũng như thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong tổ chức thi hành pháp luật;
hoàn thiện quy định, cơ chế hướng dẫn, giải thích, áp dụng pháp luật theo hướng ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, áp dụng pháp luật, để bảo đảm sức sống của quy định pháp luật thay vì thường xuyên thay đổi pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và bảo đảm nguồn lực tài chính cho tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật.
4. Chỉ đạo cấp có thẩm quyền quan tâm, đầu tư thích đáng cho công tác pháp luật, tương xứng với tính chất là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Coi đầu tư cho công tác này là đầu tư cho phát triển. Trong đó, quan tâm bố trí ngân sách theo cơ chế tài chính đặc thù cho công tác xây dựng pháp luật và đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật. Ban hành chế độ chính sách đặc thù (phụ cấp ưu đãi nghề) cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế với tỷ lệ phụ cấp tương tự như đối với các chức danh tư pháp.
Quan tâm đầu tư nguồn lực thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, ứng dụng các nền tảng số, trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để kết nối, liên thông, làm giàu cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; góp phần tạo sự bứt phá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp.
5. Chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã), cán bộ pháp chế các bộ, ngành, địa phương; quan tâm cơ cấu Giám đốc Sở Tư pháp tham gia cấp ủy địa phương
[34], đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới. Cho phép Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp xây dựng Đề án luân chuyển, điều động cán bộ ngành Tư pháp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trước mắt, quan tâm điều động, luân chuyển lãnh đạo Bộ Tư pháp và cán bộ cấp Vụ đi công tác ở địa phương để có thêm kinh nghiệm thực tiễn.
D. THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA ĐỒNG CHÍ TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI BAN CÁN SỰ ĐẢNG BỘ TƯ PHÁP
Sau khi nghe Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp báo cáo kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, phương hướng đến hết nhiệm kỳ và ý kiến phát biểu của đại diện lãnh đạo các cơ quan, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm kết luận như sau:
1. Trong gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành nhiều thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đời sống xã hội của người dân không ngừng được nâng cao về vật chất và tinh thần. Nước ta đã hình thành hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước. Nhiều lĩnh vực trước đây chỉ do cơ quan nhà nước thực hiện, đến nay từng bước được xã hội hoá, bảo đảm quyền của người dân được tham gia vào quá trình quản lý xã hội, làm chủ xã hội; lĩnh vực hành chính tư pháp ngày càng thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp thông qua các nền tảng số. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý được triển khai rộng rãi, với nhiều phương thức đa dạng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho Nhân dân và tinh thần thượng tôn pháp luật trong xã hội. Đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, tư pháp từng bước trưởng thành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao trong tình hình mới. Bên cạnh đó, Bộ, ngành Tư pháp đã chủ động, tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoàn thiện tư duy, nhận thức lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đóng góp trong việc ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Bên cạnh kết quả tích cực, công tác hoàn thiện thể chế, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện pháp luật vẫn còn tồn tại, hạn chế; cụ thể: (i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. (ii) Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, có quy định chưa rõ ràng, rườm rà, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân. Việc phân cấp, phân quyền chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm, vẫn tập trung nhiều ở Trung ương; việc cắt giảm một số quy định, thủ tục hành chính còn hạn chế. Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu; chưa có cơ chế hữu hiệu để nhận diện và phản ứng chính sách kịp thời. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước chưa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, việc giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập. Việc nghiên cứu, ban hành chính sách, quy định pháp luật điều chỉnh đối với những vấn đề mới còn chậm, chưa tạo khung khổ pháp lý thúc đẩy được các động lực tăng trưởng mới. (iii) Dấu hiệu bị tác động, "lợi ích nhóm" trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật là đáng lo ngại, gây ra thiệt hại, thậm chí tạo khúc quanh đối với phát triển.
3. Từ Đại hội XI đến nay, Đảng ta đều xác định đột phá về thể chế, với trọng tâm pháp luật là đột phá chiến lược, có ý nghĩa then chốt để nắm bắt cơ hội, khơi thông, huy động mạnh mẽ nguồn lực cho phát triển, chăm lo cho Nhân dân. Để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, sớm hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Đảng đã đề ra, công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn nóng bỏng đang đòi hỏi ở tầm cao mới, thật sự tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt một số nội dung sau đây:
3.1. Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng pháp luật, trong đó:
- Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm". Luật chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền Quốc hội, tuyệt đối không luật hoá các nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các bộ, ngành. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Mục tiêu của các quy định pháp luật là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; duy trì, bảo đảm trật tự xã hội; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm công bằng, bình đẳng, thích ứng với sự phát triển của xã hội; minh bạch, dễ tiếp cận; mang tính hệ thống và chặt chẽ; góp phần xây dựng xã hội tiến bộ, hài hoà, phát triển.
- Việc xây dựng Chương trình xây dựng pháp luật hằng năm cần bám sát 2 yêu cầu: (i) Phải trên cơ sở thực tiễn phát triển của Việt Nam và thể chế hoá đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng. Chương trình phải phản ánh hơi thở thực tiễn, bám sát, giải quyết vấn đề thực tiễn; tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt có nguyên nhân từ quy định của pháp luật, khẩn trương đưa các nguồn lực xã hội bị đình trệ, lãng phí hoạt động trở lại; thể chế hoá kịp thời những chủ trương mới của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. (ii) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…); từ đó, hình thành các động lực tăng trưởng mới, các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới. Xây dựng cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước.
- Trong xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra lợi ích nhóm, tác động pháp luật, để lọt, đánh giá không toàn diện yếu tố an ninh gây tác động tiêu cực đến lợi ích chung, lợi ích quốc gia.
- Đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật với 3 bảo đảm: (i) Bảo đảm dân chủ, minh bạch, kịp thời, khả thi, hiệu quả, dễ áp dụng trên thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao "năng suất và chất lượng" xây dựng pháp luật. (ii) Bảo đảm đánh giá tác động chính sách thực chất. (iii) Bảo đảm thực hiện cơ chế tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu tác động là người dân, doanh nghiệp, không để lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và các quy định pháp luật.
Phân định rõ khâu xây dựng chính sách và quy phạm hoá chính sách; chính sách phải cụ thể, rõ ràng; các hoạt động tổng kết, khảo sát thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, thu thập thông tin, đánh giá tác động chính sách, lựa chọn chính sách cần thực hiện kỹ lưỡng, nghiêm túc. Nghiên cứu việc tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, bảo đảm tính chuyên nghiệp, đồng bộ, thống nhất. Quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể, nhất là người đứng đầu trong từng khâu của quá trình soạn thảo, thẩm định, trình, thẩm tra, xây dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bộ Tư pháp khẩn trương tham mưu với Chính phủ, Quốc hội sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hoá các tư duy, quan điểm mới trong xây dựng pháp luật.
3.2. Phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng, thi hành pháp luật; tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và cải cách tối đa thủ tục hành chính. Phải coi việc lãnh đạo thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và lãnh đạo công tác thi hành pháp luật để bảo đảm thượng tôn Hiến pháp, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cấp uỷ, tổ chức đảng, của mỗi đảng viên, trước hết là cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên trong Bộ, ngành Tư pháp. Quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị phải bảo đảm phân cấp, phân quyền tối đa. Triệt để cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.
3.3. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, cụ thể: (i) Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tập trung xây dựng văn hoá tuân thủ pháp luật, trước hết là trong cán bộ, đảng viên và cán bộ, đảng viên ngành Tư pháp. (ii) Thường xuyên đánh giá hiệu quả pháp luật sau ban hành; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và xây dựng cơ chế hữu hiệu để chủ động phát hiện, tháo gỡ nhanh nhất những điểm nghẽn có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. (iii) Hoàn thiện quy định giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật theo hướng ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, áp dụng pháp luật để bảo đảm sức sống của pháp luật thay vì thường xuyên thay đổi pháp luật. (iv) Đề cao hơn nữa trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong đổi mới hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư; bảo đảm công chứng, hoà giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp phải thiết thực, hiệu quả, vì lợi ích cao nhất của đất nước, của người dân. Phát huy vai trò của trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
3.4. Phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Thường xuyên sàng lọc, thay thế, chuyển đổi vị trí công việc đối với những cán bộ, công chức tham mưu xây dựng pháp luật có biểu hiện động cơ không trong sáng, có dấu hiệu gây khó khăn, cản trở. Tăng nguồn lực đầu tư, có cơ chế tài chính đặc thù cho công tác nghiên cứu chính sách, xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ngày càng cao trong kỷ nguyên mới; hiện đại hoá môi trường và điều kiện làm việc để đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu xây dựng pháp luật yên tâm công tác, tận tuỵ cống hiến cho sự nghiệp chung. Có cơ chế phù hợp thu hút nhân lực chất lượng cao cho công tác xây dựng pháp luật. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật.
3.5. Nâng cao vai trò của Bộ, ngành Tư pháp trong tham gia xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế, nâng cao trách nhiệm phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, xử lý hiệu quả các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam.
4. Về các kiến nghị, đề xuất của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, thống nhất đưa vào Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025 nội dung nghiên cứu xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về "Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới"; nhất trí về chủ trương cần quan tâm, đầu tư thích đáng, có cơ chế tài chính đặc thù cho công tác pháp luật và chuyển đổi số trong lĩnh vực này; có chế độ, chính sách phù hợp cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế, xây dựng pháp luật. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao và có cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ, công chức của Bộ, ngành Tư pháp đi địa phương để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn. Các cấp uỷ địa phương quan tâm phân công cấp uỷ viên phụ trách công tác tư pháp và cơ cấu Giám đốc Sở Tư pháp tham gia cấp uỷ cấp tỉnh. Giao Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tham mưu giải quyết theo thẩm quyền các kiến nghị, đề xuất của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp./.
[1] Về biên chế, năm 2024 Bộ Tư pháp được giao
9.334 biên chế công chức,
1.675 biên chế viên chức; số biên chế có mặt đến thời điểm này là
8.836/9.334 biên chế công chức và
1.005/1.675 biên chế viên chức.
[2] Đến nay, cả nước hiện có
4.210 công chức làm việc tại các Sở Tư pháp;
2.864 công chức làm việc tại Phòng Tư pháp; có
17.058 công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
4.681 người làm công tác pháp chế (trong đó có
1.201 cán bộ pháp chế chuyên trách); các địa phương có
2.916 người làm công tác pháp chế (trong đó có
515 người chuyên trách). Các doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương có
215 người làm công tác pháp chế (trong đó có
187 người làm chuyên trách).
[3] Trong đó có 05 nghị quyết chuyên đề, 14 thông báo, kết luận , 08 chương trình, 80 kế hoạch.
[4] Nghị quyết số số 133-NQ/BCSĐ ngày 17/9/2024.
[5] Nghị quyết số số 23-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022.
[6] Nghị quyết số 25-NQ/BCSĐ ngày 14/4/2022.
[7] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ Tư pháp đã thẩm định
852 đề nghị xây dựng, dự án, dự thảo VBQPPL.
[8] Năm 2021 là
03 dự án (03 luật); năm 2022 là
15 dự án (12 luật, 03 pháp lệnh); năm 2023 là
17 dự án (16 luật, 01 pháp lệnh), tính đến hết tháng 6/2024 là
14 dự án (14 luật).
[9] Số liệu từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/5/2024.
[10] Gồm 1.751 văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ; 14.228 văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh (số liệu tính đến ngày 22/9/2024).
[11] Đến nay đã xử lý
41 văn bản, gồm: 06 luật, 15 nghị định, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 19 thông tư, thông tư liên tịch; đang xử lý
144 văn bản, gồm: 34 luật, 01 pháp lệnh, 66 nghị định và 43 thông tư, thông tư liên tịch…
[12] Bộ Tư pháp đã tham mưu Ban Chỉ đạo họp
03 Phiên; kiến nghị xử lý đối với
71 nhóm nội dung tại
13 luật. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Tư pháp, Ban Chỉ đạo đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xây dựng 03 luật sửa đổi, bổ sung 13 luật nêu trên. Dự thảo 03 Dự án luật trên đã được UBTVQH xem xét, cho ý kiến và Báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, tháng 10/2024. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu, phân loại
153 kiến nghị từ kết quả rà soát đối với
43 luật, xem xét, đánh giá các vướng mắc, bất cập cần xử lý đối với 05 luật với 07 nội dung…
[13] Gồm
39.405 văn bản trung ương và
93.170 văn bản của địa phương.
[14] Như:
(i) Năm 2021: Về quản lý, sử dụng đất đai, rừng; về bảo vệ môi trường; về phòng cháy và chữa cháy;
Năm 2022: Về các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19; tự chủ đại học thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo; lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường;
Năm 2023: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về giá; Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội;
Năm 2024: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm;
(ii) Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về quản lý thuế; Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm.
[15] Từ đầu nhiệm kỳ đến 6 tháng đầu năm 2024, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức hơn
1.769.718 cuộc PBGDPL trực tiếp cho hơn
124 triệu lượt người.
[16] Căn cứ Nghị quyết của Chính phủ, từ năm 2021 đến nay, trên cơ sở điều hành chung của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hằng năm Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình công tác trọng tâm trong lĩnh vực THADS, theo dõi THAHC; đổi mới cách thức giao và chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ từ Tổng cục THADS đến từng cấp, từng đơn vị theo hướng rõ người, rõ việc, với nhiều giải pháp đồng bộ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành; tổ chức các cuộc họp, hội nghị bằng hình thức trực tuyến, lưu hành văn bản điện tử trên trục liên thông văn bản quốc gia; chỉ đạo các cơ quan THADS thực hiện phương án làm việc, tổ chức thi hành án linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể tại từng địa phương.
[17] Tính đến ngày 18/10/2024, Hệ thống đã có
62.191.670 dữ liệu đăng ký khai sinh (trong đó có
11.938.816 trẻ em được đăng ký khai sinh, cấp số định danh cá nhân thông qua việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư);
7.022.606 dữ liệu đăng ký kết hôn;
11.060.275 dữ liệu đăng ký khai tử và
15.772.899 dữ liệu đăng ký các sự kiện hộ tịch khác.
[18] Hệ thống đăng ký trực tuyến đang trực tiếp phục vụ hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin cho hơn
10.523 tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân khác với hơn
8.002.898 hồ sơ đăng ký trong Cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm; trung bình mỗi ngày có hơn
3.300 yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin, hơn
1.500 văn bản thông báo thế chấp phương tiện giao thông được gửi tới cơ quan đăng ký quản lý phương tiện và hơn
10.000 lượt tra cứu, tìm kiếm thông tin được thực hiện trên Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm bằng động sản.
[19] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ Tư pháp đã cấp, cấp lại gần
6.000 Chứng chỉ hành nghề luật sư; cấp, gia hạn Giấy phép cho trên
220 luật sư nước ngoài, số vụ việc do các luật sư Việt Nam thực hiện là trên
400.000 vụ việc, nộp thuế trên
2.000 tỷ đồng; đã bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cho gần
500 công chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được gần
30.000.000 hợp đồng, giao dịch, bản dịch và các loại việc khác; nộp ngân sách nhà nước hơn
1000 tỷ đồng; đã cấp
89 Chứng chỉ hành nghề đấu giá, các đấu giá viên đã thực hiện hơn
1000 cuộc đấu giá; đã cấp
422 Chứng chỉ hành nghề quản tài viên, cấp Giấy đăng ký hoạt động cho 01 Trung tâm hòa giải thương mại và thực hiện thủ tục bổ sung chức năng hòa giải thương mại cho Trung tâm trọng tài thương mại; cấp Giấy đăng ký hoạt động cho 14 Trung tâm trọng tài thương mại.
[20] Gồm:
138 tổ chức giám định tư pháp công lập;
580 tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc và
01 Văn phòng giám định tư pháp.
[21] Như: Tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 thông qua đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản và cho ý kiến đối với dự án Luật Công chứng
(sửa đổi); trình Chính phủ ban hành Nghị định số Nghị định số 47/2023/NĐ-CP ngày 03/7/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản; ban hành Thông tư số 08/2023/TT-BTP ngày 02/10/2023 thay thế Thông tư số 04/2015/TT-BTP hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng; Thông tư số 09/2023/TT-BTP ngày 30/10/2023 quy định về giám định tư pháp trong lĩnh vực tư pháp…
[22] Năm 2021 là
17.966 vụ; năm 2022 là
21.276 vụ; năm 2023 là
26.816 vụ.
Từ đầu nhiệm kỳ đến hết tháng 6/2024, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã cung cấp
100.608 vụ việc (trong đó có 78.719 vụ việc tố tụng, chiếm 78,2%)
[23] Theo Báo cáo số 129/BC-BTP ngày 14/3/2024 của Bộ Tư pháp đánh giá kết quả 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018 đến 30/6/2023), các cơ quan có trách nhiệm bồi thường trên toàn quốc đã thụ lý, giải quyết
168 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó, số vụ đã có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 103 vụ việc, đạt tỷ lệ 61,3%, với số tiền nhà nước phải bồi thường trong các văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 76 tỷ 985 triệu 530 nghìn đồng, 22 vụ việc đã đình chỉ, còn lại 43 vụ việc đang tiếp tục giải quyết (tỷ lệ vụ việc đã giải quyết xong trung bình năm của 05 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 là 14,8% cao hơn so với tỷ lệ 13,2% vụ việc đã giải quyết xong trung bình năm của 06 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2009).
[24] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ Tư pháp đã thẩm định
125 điều ước quốc tế; góp ý
807 điều ước, thoả thuận quốc tế; tiếp nhận, chuyển giao cho các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và trong nước
8.269 hồ sơ về ủy thác tư pháp.
[25] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ Tư pháp đã đàm phán, ký
32 văn kiện thỏa thuận, chương trình/kế hoạch hợp tác; ký kết
03 chương trình, dự án.
[26] Ban hành các văn bản, đề án như: Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2022-2026, Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp giai đoạn 2022-2026; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2024/NĐ-CP ngày 01/3/2024 thay thế cho Nghị định số 113/2014/NĐ-CP;…
[27] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Bộ đã cử
872 lượt công chức, viên chức của Bộ Tư pháp đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước và
39 lượt công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài; tổ chức
69 lớp bồi dưỡng cho công chức, viên chức các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp. Hằng năm, Bộ Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ pháp chế, cán bộ tư pháp địa phương, trong đó có nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác xây dựng văn bản, pháp chế trong quá trình xây dựng VBQPPL, cũng như trong việc tư vấn pháp luật cho người dân, doanh nghiệp.
[28] Quyết định số 1155/QĐ-TTg và số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
[29] Gồm: Đề án "Tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp" và Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”
[30] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay tại Bộ Tư pháp, các đơn vị và các cơ sở đào tạo thuộc Bộ tích cực triển khai
02 nhiệm vụ khoa học cấp nhà nước;
52 đề tài, đề án khoa học cấp bộ;
03 chương trình khoa học cấp Bộ và
17 nhiệm vụ khoa học cấp cơ sở.
[31] Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2022/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Nghị định số 56/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế; Quyết định số 916/QĐ-TTg ngày 27/8/2024 phê duyệt Đề án phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2030. Đây là những văn bản quan trọng, là cơ sở để kiện toàn tổ chức bộ máy, hoạt động, nhân sự của các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả phù hợp với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[32] Như: Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 08/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp; Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 08/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Thông tư số 07/2020/TT-BTP ngày 21/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Thông tư số 04/2022/TT-BTP ngày 21/6/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn về Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp; Thông tư số 07/2022/TT-BTP ngày 01/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp
[33] Như: Luật Công chứng (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL; Luật Luật sư (sửa đổi); Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi); Luật Tương trợ tư pháp về dân sự; Luật Giám định tư pháp (sửa đổi); Luật Tổ chức thi hành pháp luật…
[34] Hiện nay có 14/63 Tỉnh ủy viên là Giám đốc Sở Tư pháp.