Với tư cách là thành viên Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp Trưởng Ban Chỉ đạo các biện pháp, giải pháp đẩy mạnh cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp đã đánh giá khái quát tình hình thực hiện và kết quả công tác cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2015 như sau:
- Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định cải cách thể chế là một trong ba trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 2011-2020. Thực hiện Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008, công tác lập và việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật trong giai đoạn 2011 - 2015 đã có những chuyển biến tích cực, bảo đảm chất lượng hơn, nhất là đối với công tác lập và thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp luật. Chính phủ đã thực hiện hiệu quả giải pháp lựa chọn lĩnh vực trọng điểm cần đầu tư, xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó xác định thứ tự ưu tiên đối với lĩnh vực then chốt, tạo sức bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã kịp thời đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua cho phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu triển khai Hiến pháp năm 2013.
Công tác xây dựng và thực thi pháp luật ở nước ta đã thực sự có những chuyển biến tích cực, thể hiện tư duy lập pháp mới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã được định hình một cách rõ nét trên tất cả các lĩnh vực, làm nền tảng cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Các văn bản pháp luật được ban hành trong giai đoạn này đang dần đáp ứng các tiêu chí của hệ thống pháp luật về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch, bảo đảm vận hành, quản lý xã hội, phù hợp hơn với bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN. Hàng năm, căn cứ các quy định của luật, pháp lệnh và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước, các chương trình công tác, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã tập trung ưu tiên cho công tác xây dựng ban hành nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Điểm khác biệt nổi bật so với giai đoạn trước là hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ, Quốc hội không chỉ chú trọng đến ban hành các văn bản pháp luật về phát triển kinh tế thị trường, mà đã tập trung nhiều hơn cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là các lĩnh vực xã hội, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ... Nhiều chủ trương lớn đã được triển khai trên thực tế và có tác động tích cực, hạn chế được tình trạng “dễ làm khó bỏ” (đã tồn tại nhiều năm) trong hoạt động lập pháp, một số đạo luật khó như Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật đầu tư công, Luật sử dụng vốn của Nhà nước vào đầu tư kinh doanh đã được ban hành và đã bước đầu mang lại diện mạo mới của bộ máy nhà nước theo hướng năng động, hiệu lực, hiệu quả và trách nhiệm trước Nhân dân.
- Việc tổ chức thực thi đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm từng bước sửa đổi, bổ sung hệ thống thủ tục hành chính theo phương án đã được Chính phủ phê duyệt tại 25 Nghị quyết chuyên đề năm 2010 là một nội dung trọng tâm trong công tác cải cách thủ tục hành chính từ năm 2011 đến nay được các ngành, các cấp tích cực tổ chức thực hiện. Tính đến tháng 6 năm 2016, các Bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đơn giản hóa 4.527/4.723 thủ tục hành chính đã được Chính phủ phê duyệt tại 25 Nghị quyết chuyên đề (đạt tỷ lệ 95,85%) thủ tục hành chính, cơ bản hoàn thành mục tiêu của Đề án 30.
Từ năm 2011 đến nay, có 13.735 thủ tục hành chính đã được rà soát nhằm phát hiện vướng mắc, bất cập; một số lĩnh vực trọng tâm liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đã có nhiều cải cách mạnh mẽ như: thuế, hải quan, khởi sự doanh nghiệp, đầu tư, xây dựng, công thương… đã kịp thời tháo gỡ cho cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện thủ tục hành chính.
Thời gian qua, việc thực hiện đánh giá tác động các quy định về thủ tục hành chính đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại các Bộ, ngành, địa phương theo quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP của Chính phủ được tiếp tục quan tâm và ngày càng đi vào nề nếp, qua đó đã góp phần hỗ trợ cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo kịp thời phát hiện, chỉnh sửa nhiều bất cập về thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; giúp cơ quan/cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thêm thông tin để quyết định ký ban hành hoặc thông qua văn bản quy phạm pháp luật quy định các thủ tục hành chính thật sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp và có chi phí tuân thủ thấp nhất. Từ năm 2011 đến tháng 6/2016, các Bộ, ngành, địa phương đã đánh giá tác động đối với
8.927 thủ tục hành chính quy định tại
2.093 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh việc thực hiện đánh giá tác động của các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo đối với các thủ tục hành chính nêu trên, từ năm 2014 đến nay, Tổ chức Pháp chế, Sở Tư pháp đã tham gia ý kiến đối với
3.816 thủ tục hành chính tại
822 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và thẩm định đối với
3.408 thủ tục hành chính tại
831 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Việc công khai, minh bạch thủ tục hành chính, duy trì, cập nhật Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính đã góp phần tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước dễ dàng tra cứu, tìm hiểu để thực hiện và tham gia đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định hành chính.
Thực hiện Đề án 896 về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 – 2020, đến nay, các Bộ, ngành đã thực hiện rà soát 1.934 thủ tục hành chính có yêu cầu thông tin công dân để giải quyết thủ tục hành chính và đề xuất đơn giản hóa đối với 1.126 thủ tục (đạt 58,2%). Đồng thời, Bộ Công an đã phê duyệt dự án khả thi, lựa chọn nhà thầu xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thống nhất việc khai thác, sử dụng thông tin công dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2015 cũng còn một số tồn tại, hạn chế như: Tính đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy đã có cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch, thiếu tính đồng bộ giữa các lĩnh vực; nhiều đạo luật chưa có tính ổn định, tính dự báo chưa cao, nên thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung, ảnh hưởng đến sự ổn định của các quan hệ kinh tế - xã hội; tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh vẫn còn; thủ tục hành chính mặc dù được cải cách nhưng vẫn còn rườm rà, phức tạp, tạo kẽ hở trong quá trình thực hiện; một số Bộ, ngành, địa phương chưa chưa thực hiện đúng quy trình kiểm soát quy định thủ tục hành chính trong dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; nhận thức của cán bộ công chức về cải cách thủ tục hành chính còn hạn chế, một số nơi triển khai còn hình thức, đối phó, chưa quyết liệt…
Cải cách thể chế đã tiếp tục được xác định là một trong ba trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020
Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã xác định rõ 10 nhóm nhiệm vụ cải cách thể chế và 07 nhóm nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, trong đó, cải cách thể chế đã tiếp tục được xác định là một trong ba trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020. Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp có một số đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như sau:
- Quán triệt các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương nhận thức đúng đắn, tiếp tục chỉ đạo sát sao, quyết liệt và tăng cường hơn nữa tính chủ động, tích cực và tinh thần trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương về công tác cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính góp phần thực hiện được các mục tiêu mà Nghị quyết 30c/NQ-CP và Quyết định số 225/QĐ-TTg đã đặt ra.
- Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tuân thủ nghiêm và bám sát các yêu cầu của Luật ban hành VBQPPL 2015; thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm bảo đảm chất lượng và tiến độ, không để nợ đọng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Lựa chọn đúng lĩnh vực ưu tiên, đúng những khâu đột phá và xây dựng chính sách, pháp luật theo đúng định hướng về cải cách thể chế gắn với cải cách hành chính nói chung, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp trong việc thực hiện công tác xây dựng pháp luật, nhất là đối với việc xây dựng thể chế trong các lĩnh vực có liên quan đến chức năng, quyền hạn của nhiều cơ quan khác nhau.
- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương triển khai quyết liệt hơn công tác pháp chế theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, nhất là việc thành lập mới và kiện toàn tổ chức pháp chế về tổ chức bộ máy, nhân sự và kinh phí hoạt động, bảo đảm việc ban hành thể chế gắn với tổ chức thực hiện hiệu quả. Chỉ đạo đầu tư thích đáng hơn nữa về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao cho công tác xây dựng pháp luật của bộ, ngành, địa phương mình. Đồng thời, có cơ chế thu hút sự tham gia của các bộ, ngành liên quan và trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn đối với nội dung dự thảo pháp luật, góp phần đảm bảo tính tính khả thi, sự phù hợp với thực tiễn của văn bản pháp luật và vì thế dễ dàng phát huy hiệu lực và tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch triển khai thi hành các văn bản pháp luật, đặc biệt là các bộ luật, các luật sau khi được ban hành một cách khoa học, hiệu quả để đảm bảo đưa luật vào đời sống, đảm bảo sự gắn kết liên tục giữa xây dựng và thi hành pháp luật. Các chương trình, kế hoạch thi hành luật phải có lộ trình ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật đảm bảo đúng thời hạn có hiệu lực của luật, phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm các điều kiện, các nguồn lực cho việc thi hành luật, có cơ chế cụ thể để kiểm tra, giám sát việc thi hành ở từng bước, từng giai đoạn, đặc biệt là việc đánh giá tác động hiệu quả kinh tế - xã hội thực tế của văn bản được thi hành.
- Chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường thông qua việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và cắt giảm gánh nặng hành chính; công khai minh bạch các chính sách, thủ tục hành chính, tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Đổi mới toàn diện công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc giảm mạnh thanh tra, kiểm tra đột xuất, chỉ thanh tra, kiểm tra theo chương trình kế hoạch được cấp có thẩm quyền giao hoặc khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
- Đẩy mạnh phân cấp việc giải quyết thủ tục hành chính cho các cấp chính quyền địa phương theo hướng các Bộ, ngành trung ương tập trung vào xây dựng, hoạch định chính sách, thanh tra, kiểm tra; các cấp chính quyền địa phương là cấp tổ chức thực hiện chính sách và cung cấp dịch vụ công. Trong năm 2017 - 2018, các bộ, ngành tập trung nghiên cứu, trình Chính phủ xem xét, quyết định phân cấp việc giải quyết thủ tục hành chính cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện
[1]. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ việc giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV, theo đó, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định về giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
- Các bộ, ngành, địa phương siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước và từng cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, công chức, viên chức có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong phục vụ nhân dân.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ theo hướng tăng cường sự gắn kết giữa cải cách hành chính với xây dựng Chính phủ điện tử, sự gắn kết trong chỉ đạo với tổ chức thực thi các nhiệm vụ cải cách; bảo đảm tính tập trung, thống nhất, giảm cơ cấu tổ chức với việc không tổ chức Ban Chỉ đạo tại các Bộ, ngành, các sở, ngành, đơn vị cấp huyện, cấp xã; tăng cường họp và làm việc chuyên đề của Ban Chỉ đạo để bàn chuyên sâu từng vấn đề cần quan tâm cải cách trong từng giai đoạn, có sự phản biện của các chuyên gia, hiệp hội và địa phương.
Với những mục tiêu, yêu cầu mà Quyết định số 225/QĐ-TTg đã đặt ra, nhất là để thực hiện có hiệu quả các trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 là:
“Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công” thì nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 của Chính phủ rất nặng nề. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp tin tưởng rằng, dưới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự quyết tâm nỗ lực của các Bộ, ngành, địa phương, của các thành viên Ban Chỉ đạo cải cách hành chính, sự tham gia tích cực của người dân và cộng đồng doanh nghiệp, công tác cải cách hành sẽ hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, để Chính phủ thực sự là “
Chính phủ kiến tạo và phục vụ; lấy sự hài lòng của doanh nghiệp, người dân là thước đo hiệu quả hoạt động” theo đúng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.