NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
Về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam năm 1992,
QUYẾT NGHỊ:
1.Luật hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốchội thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000 được gọi là Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000.
2.Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong phạmvi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việcrà soát các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành để hủy bỏ,sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, đề nghị Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hộihủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với quy định của Luậtnày, bảo đảm hiệu lực của Luật từ ngày 01 tháng 1 năm 2001.
3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a)Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thìđược khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000;
b)Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thìcó nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệulực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng kýkết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn củaLuật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từsau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật khôngcông nhận họ là vợ chồng;
c)Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a vàđiểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồngmà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu cóyêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
4.Việc Tòa án áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình để giải quyết các vụ,việc về hôn nhân và gia đình được quy định như sau:
a)Đối với những vụ, việc mà Tòa án đã thụ lý trước ngày 01 tháng 1 năm 2001 thìáp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải quyết;
b)Đối với những vụ, việc mà Tòa án thụ lý từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 thì áp dụngLuật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết;
c)Không áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết này để khángnghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ, việc mà Tòa án đãáp dụng luật hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải quyết.
5.Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sátnhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy địnhchi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
Chínhphủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chứcnăng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Trung ươngMặt trận Tồ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền,phổ biến rộng rãi Luật hôn nhân và gia đình nhằm phát huy tác dụng của Luật hônnhân và gia đình trong việc xây dựng và củng cố gia đình Việt Nam no ấm, bìnhđẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Nghịquyết này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họpthứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000./.