SắC LệNHSẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 9 NGÀY 29 THÁNG 1 NĂM 1947
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
Xét tình thế đặc biệt của cuộc kháng chiến toàn quốc,
Chiểu chi sắc lệnh số 13 ngày 14-1-1946 và số 42 ngày 3-4-46 ấn định thủ tục truy tố các nhân viên các cấp trong Chính phủ cùng các cơ quan hành chính và tư pháp,
Chiểu chi thông lệnh tổ chức chính quyền và thông lệnh tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt,
Chiểu theo đề nghị của các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quốc phòng và tư pháp.
Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả thuận và sau khi đã hỏi ý kiến ban thường trực Quốc hội,
RA SẮC LỆNH:
Điều 1
- Trong thời kỳ kháng chiến, các lệnh số 13 ngày 14-1-1946, mục B, và số 42 ngày 3-4-46 sẽ tạm thời đình chỉ thi hành.
Sự bắt bớ, giam cầm cùng là truy tố các nhân viên nói trong hai sắc lệnh đó và các nhân viên Uỷ ban Kháng chiến sẽ theo thủ tục sau đây:
Điều 2
- Không ai được bắt bớ giam cầm
a) Trưởng ban Thường trực Quốc hội, một Bộ trưởng hay Thứ trưởng nếu không được Chủ tịch Chính phủ thoả thuận;
b) Một Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kỳ, nếu không được Bộ trưởng Bộ Nội vụ thoả thuận trước.
Một nhân viên Uỷ ban kháng chiến khu nếu không được Bộ quốc phòng và Nội vụ thoả thuận trước.
Một chánh nhất chưởng lý hoặc Giám đốc Tư pháp khu, nếu không được Bộ trưởng Bộ Tư pháp thoả thuận trước.
c) Một đại biểu Quốc hội, thẩm phán, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh, nhân viên Uỷ ban kháng chiến tỉnh, nếu không được Uỷ ban kháng chiến khu thoả thuận trước.
Riêng về thẩm phán trước khi quyết nghị, Uỷ ban Kháng chiến khu phải hỏi ý kiến viên Giám đốc Tư pháp khu.
Riêng về đại biểu Quốc hội, sau khi quyết nghị bắt giam, Uỷ ban Kháng chiến khu phải báo ngay cho ban Thường trực quốc hội.
Uỷ ban Kháng chiến khu sau khi hỏi ý kiến viên giám đốc khu có thể uỷ quyền cho Uy ban Kháng chiến tỉnh để ra lệnh bắt một thẩm phán sơ cấp trong tỉnh phạm pháp, nhưng trước khi ra lệnh, Uỷ ban Kháng chiến tỉnh phải hỏi ý kiến viên biện lý tỉnh.
Điều 3
- Về khinh tội hay trọng tội, các đơn kiện hay cáo giác
a) Trưởng ban Thường trực Quốc hội, một Bộ trưởng hay Thứ trưởng phải gửi lên Chủ tịch Chính phủ Việt Nam.
b) Một Chủ tịch Uỷ ban hành chính Kỳ, một nhân viên trong Uỷ ban kháng chiến khu, chánh nhất chưởng lý hay giám đốc tư pháp khu, phải gửi lên Bộ trưởng Bộ Nội vụ
c) Một đại biểu Quốc hội, một Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh hay một nhân viên trong Uỷ ban Kháng chiến tỉnh, một thân nhân, phải gửi lên Uỷ ban kháng chiến khu.
Nếu cơ quan hành chính hay tư pháp nào khác nhận được đơn kiện hay cáo giác thì phải gửi thẳng đơn ấy lên Chủ tịch Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp hay Uỷ ban kháng chiến khu tuỳ trường hợp.
Điều 4
- Chủ tịch Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Uỷ ban kháng chiến khu có thể giao cho ông Chưởng lý toà thượng thẩm hay giám đốc tư pháp khu (hay biện lý tỉnh nếu là thẩm phán sơ cấp) đi điều tra trước rồi sẽ định đoạt có nên hay không nên truy tố trước toà án.
Nếu người phạm pháp trọng tội hay khinh tội là Bộ trưởng hay Thứ trưởng thì phải được Hội đồng Chính phủ thoả thuận, nếu là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, thì phải được ban Thường trực Quốc hội thoả thuận, mới được đem ra truy tố.
Nếu là thẩm phán, thì Uỷ ban kháng chiến khu phải hỏi ý kiến viên Giám đốc tư pháp, trước khi quyết nghị đưa ra truy tố trước toà.
Điều 5
- Nếu nên truy tố,
a) Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, nhân viên Uỷ ban kháng chiến tỉnh, thẩm phán sẽ đưa ra trước toà án xử theo thủ tục thường áp dụng trước các toà án do Toà án xử bắt buộc phải có hai phúc thẩm nhân dân và hai hội thẩm chuyên môn.
Riêng về Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, nhân viên uỷ ban kháng chiến tỉnh, và thẩm phán, Toà án xử sẽ do viên giám đốc tư pháp chỉ định trong các Toà án ở khu, nhưng không được là Toà án tỉnh trong đó người can phạm hiện đang làm việc.
b) Bộ trưởng hay Thứ trưởng, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu, Giám đốc tư pháp khu, sẽ phải đưa ra trước toà thượng thẩm nơi phát giác ra trong tội hay khinh tội, họp tất cả các phòng để xử.
Trong trường hợp đặc biệt, mà Toà thượng thẩm bị tạm đình chỉ, thì sẽ phải đưa ra xử trước một Toà án đặc biệt.
Toà án đặc biệt gồm có:
Bộ trưởng Bộ tư pháp hay một Bộ trưởng khác (nếu Bộ trưởng tư pháp liên can đến việc phạm pháp) do Chủ tịch Chính phủ chỉ định ngồi ghế Chánh án, Bộ trưởng tư pháp có thể uỷ quyền cho Chánh nhất để làm Chánh án Toà án đặc biệt.
Hai giám đốc tư pháp khu, do Bộ trưởng tư pháp chỉ định làm hội thẩm.
Hai Chủ tịch uỷ ban kháng chiến khu hay người đại diện do Bộ trưởng bộ Quốc phòng và Nội vụ chỉ định làm phụ thẩm.
Chưởng lý hay một thẩm phán đại diện ngồi ghế công tố.
Một viên lục sự chọn trong các hàng lục sự toà đệ nhị cấp ngồi ghế lục sự.
Một khi nhận được lệnh truy tố, Chưởng lý hay thẩm phán đại diện làm khởi tố trạng. Chánh nhất Toà thượng thẩm hoặc chánh án Toà án đặc biệt sẽ tự định hay cử một viên hội thẩm mở cuộc thẩm cứu.
Toà thượng thẩm hay Toà án đặc biệt sẽ xử chung thẩm và theo thủ tục áp dụng trước toà thượng thẩm xử việc đại hình.
Điều 6
Nếu gặp trường hợp phạm pháp quả tang về trọng tội hay khinh tội, phụ trách tư pháp công an nơi xẩy ra việc phạm pháp có quyền điều tra ngay để các vật chứng khỏi bị tiêu huỷ và trong hạn 24 giờ phải giao can phạm cùng tang vật sang ông biện lý hoặc công cáo uỷ viên toà án quân sự. Ông biện lý hay công cáo uỷ viên Toà án quân sự tức khắc phải mở cuộc điều tra, hỏi cung các bị cáo và các nhân viên và tự lên các nhân viên hay cơ quan nói trong điều 2 để lấy huấn lệnh. Hỏi cung xong, và chậm nhất trong hạn 7 ngày trọn, kể từ ngày nhận được tờ báo cáo của phụ trách tư pháp công an nếu không có sự thoả thuận của các nhân viên hay cơ quan nói ở điều 2 thì bị cáo phải được tạm tha.
Trong trường hợp mà bị cáo lại chính là biện lý hay công cáo uỷ viên toà án quân sự, thì viên Chánh án Toà án thường hay Toà án quân sự có quyền điều tra như trên đây.
Điều 7
- Sắc lệnh này sẽ thi hành đối với tất cả các việc đã xẩy ra trước ngày ký sắc lệnh này mà chưa thành án.
Điều 8
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tư pháp chiểu sắc lệnh thi hành.