HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VÀ PHÁP LÝ
Về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết
___________________________
Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết.
Xuất phát từ lòng mong muốn phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị trên cơ sở Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ký ngày 3 tháng 11 năm 1987.
Cho rằng việc phát triển hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư phát và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự có ý nghĩa quan trọng.
Đã quyết định ký kết Hiệp định này và với mục đích ấy hai bên đã cử đại diện toàn quyền của mình.
Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử:
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Hiền.
Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết cử:
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Terebilov V.I.
Các đại diện toàn quyền, sau khi trao đổi giấy ủy quyền hợp pháp và hợp thức, đã thỏa thuận những điều sau đây:
Chương I
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 1. Bảo hộ pháp lý
1. Công dân nước này ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của nước ký kết kia sự bảo hộ pháp lý đối với các quyền nhân thân và tài sản mà nước ký kết kia dành cho công dân của mình.
2. Công dân của nước ký kết này được quyền tự do liên hệ với Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan công chứng (sau đây, gọi chung là cơ quan tư pháp) và các cơ quan khác có thẩm quyền về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự của nước ký kết kia. Họ cũng có quyền bày tỏ ý kiến, đề đạt nguyện vọng, đưa đơn kiện và thực hiện những hành vi tố tụng khác trước các cơ quan trên theo những điều kiện mà nước ký kết kia dành cho công dân mình.
3. Những quy định trong các khoản 1 và 2 của Điều này cũng được áp dụng cho vấn đề lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án.
4. Những quy định của Hiệp định này cũng được áp dụng tương ứng đối với các pháp nhân của nước ký kết.
Điều 2. Tương trợ tư pháp
1. Cơ quan tư pháp của nước ký kết sẽ tương trợ nhau về tư pháp trong các vấn đề dân sự (kể cả lao động), gia đình và hình sự, theo những quy định trong Hiệp định này.
2. Cơ quan tư pháp của các nước ký kết cũng sẽ tương trợ về tư pháp cho các cơ quan khác của mỗi nước ký kết có thẩm quyền về các vấn đề ở khoản 1.
Điều 3. Cách thức liên hệ
1. Khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan tư pháp của nước ký kết liên hệ với nhau qua Bộ Tư pháp hoặc Viện Kiểm sát của mình, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác; phía Liên Xô là Bộ Tư pháp hoặc Viện kiểm sát của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết; phía Việt Nam là Bộ Tư pháp hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Các cơ quan khác có thẩm quyền về dân sự, gia đình và hình sự gửi ủy thác tư pháp cho nhau qua các cơ quan tư pháp, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác.
Điều 4. Phạm vụ tương trợ tư pháp
Các nước ký kết tương trợ nhau về mặt tư pháp bằng cách thực hiện việc ủy thác tiến hành các hành vi tố tụng riêng biệt đã được pháp luật của nước được ủy thác quy định, như tống đạt giấy tờ, khám xét, thu giữ và chuyển giao các vật chứng, tiến hành giám định, lấy lời khai của các bị cáo, người làm chứng, người giám định, các bên đương sự và những người khác, xem xét vật chứng tại phiên tòa, thi hành các quyết định, dẫn dộ người phạm tội, điều tra hình sự hoặc chuyển giao tài liệu và cung cấp cho các tin tức khác.
Điều 5. Hình thức ủy thác tư pháp
1. Giấy ủy thác tư pháp cần nêu đủ các điểm sau đây:
1) Tên cơ quan ủy thác;
2) Tên cơ quan được ủy thác;
3) Tên công việc ủy thác;
4) Họ tên, quốc tịch, nghề nghiệp, nơi cư trú hay nơi tạm trú của các bên đương sự, bị can, bị cáo và cả của những người khác có liên quan đến việc ủy thác tư pháp;
5) Họ tên và địa chỉ của người đại diện trong tố tụng;
6) Nội dung ủy thác; riêng đối với vụ án hình sự thì còn phải miêu tả hoàn cảnh thực tế của tội phạm và nêu tội danh pháp lý.
2. Giấy ủy thác tư pháp phải có chữ ký và đóng dấu;
3. Khi thực hiện tương trợ tư pháp, hai nước ký kết được sử dụng các giấy in sẵn bằng tiếng Nga và tiếng Việt, mà trước đó đã gửi mẫu cho nhau.
Điều 6. Cách thức thực hiện ủy thác tư pháp
1. Trong việc thưc hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Song nếu có đề nghị của cơ quan yêu cầu thì cũng có thể áp dụng các quy phạm tố tụng của nước ký kết có cơ quan yêu cầu, miễn là những quy phạm đó không mâu thuẫn với pháp luật của nước mình.
2. Trong trường hợp không có thẩm quyền, cơ quan được ủy thác sẽ chuyển việc được ủy thác cho cơ quan có thẩm quyền.
3. Nếu việc được ủy thác không thể thực hiện được theo địa chỉ đã nếu trong giấy tờ ủy thác, thì cơ quan được yêu cầu sẽ căn cứ vào pháp luật của nước mình mà thi hành những biện pháp cần thiết để tìm ra địa chỉ đúng.
4. Theo yêu cầu của cơ quan của nước ủy thác, cơ quan của nước được yêu cầu sẽ thông báo kịp thời cho cơ quan đó và các bên liên quan biết thời gian và địa điểm thực hiện việc được ủy thác.
5. Nếu không thực hiện được việc ủy thác thì cơ quan được ủy thác sẽ gửi trả tài liệu và đồng thời thông báo lý do cho cơ quan ủy thác biết.
Điều 7. Gọi người làm chứng và người giám định
1. Người làm chứng hoặc người giám định, không kể là công dân nước nào, mà theo giấy gọi của cơ quan tư pháp được yêu cầu đến cơ quan yêu cầu, thì không thể bị truy cứu trách nhiệm, không bị bắt giữ hoặc không bị xử lý về hành vi phạm pháp thực hiện trước khi qua biên giới của nước yêu cầu. Những người đó cũng không thể bị truy cứu trách nhiệm, không bị bắt giữ hoặc không bi xử lý vì những lời khai làm chứng và những kết luận có tư cách là người giám định, hoặc vì họ liên quan đến vụ án hình sự đang là đối tượng của tố tụng.
2. Người làm chứng hoặc người giám định không được hưởng sự bảo đảm nói ở khoản 1 nếu, mặc dù có khả năng, họ đã không rời khỏi lãnh thổ của nước yêu cầu trong vòng 15 ngày kể từ ngày họ được báo là sự có mặt của họ không cần thiết nữa. Sẽ không tính vào thời gian mà họ không thể rời khỏi nước ký kết trên vì những nguyên nhân không phụ thuộc vào họ.
3. Người làm chứng và người giám định được gọi sang lãnh thổ của nước ủy thác có quyền được hoàn lại các khoản chi phí về đi đường, về cư trú cũng như khoản tiền lương không được hưởng thù lao giám định. Ngoài ra người giám định còn đươc hưởng thù lao giám định. Giấy gọi phải ghi rõ các khoản tiền mà những người được gọi có quyền hưởng. Nếu người được gọi yêu cầu thì cơ quan của nước ký kết đã phát giấy gọi sẽ phải ứng trước một số tiền để thanh toán các khoản chi phí thích ứng.
Điều 8. Sự hợp lệ của giấy tờ
1. Các giấy tờ do các cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc chứng nhận trên lãnh thổ của một nước ký kết theo đúng thể thức quy định, được miễn thị thực khi đem sử dụng ở nước ký kết kia. Giấy tờ này bao gồm cả giấy tờ của công dân, nếu chữ ký của họ đã được chứng thực theo đúng những quy định hiện hành ở nước họ.
2. Những giấy tờ được coi là chính thức trên lãnh thổ của một nước ký kết thì trên lãnh thổ của nước ký kết kia cũng có giá trị như các giấy tờ chính thức của nước đó.
Điều 9. Chuyển giao giấy tờ liên quan đến quyền và lợi ích riêng của công dân
1. Nước ký kết này, thể theo yêu cầu nhận được qua đường ngoại giao, chuyển giao cho nước ký kết kia các giấy chứng nhận về hộ tịch, thời gian công tác, trình độ văn hóa và các giấy tờ khác có liên quan đến quyền và lợi ích của công dân nước ký kết kia.
2. Các giấy tờ trên đây được chuyển giao bằng đường ngoại giao, không phải dịch và được miễn các khoản tiền.
Điều 10. Tống đạt giấy tờ
1. Cơ quan tư pháp của nước được yêu cầu sẽ căn cứ vào những quy định hiện hành của nước mình mà tống đạt giấy tờ, nếu những giấy tờ đó được viết bằng tiếng nước mình hoặc có kèm theo bản dịch được chứng nhận là đúng. Trong các trường hợp khác, chỉ tống đạt khi người nhận tự nguyện nhận.
2. Giấy ủy thác tống đạt giấy tờ cần ghi rõ địa chỉ người nhận và tên của giấy tờ đó.
3. Nếu việc tống đạt không thể thực hiện được theo địa chỉ đã nêu trong giấy ủy thác, thì cơ quan được ủy thác sẽ căn cứ vào pháp luật nước mình mà tiến hành các biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ đúng của người nhận; nếu không thể tìm được địa chỉ của người nhận, thì cơ quan được ủy thác sẽ thông báo cho cơ quan ủy thác biết và gửi trả các giấy tờ cần tống đạt.
Điều 11. Xác nhận việc tống đạt giấy tờ
Xác nhận việc tống đạt giấy tờ được thực hiện theo các quy định hiện hành về tống đạt của nước được yêu cầu. Giấy xác nhận cần ghi rõ thời gian, địa điểm tống đạt và họ tên người đã nhận giầy tờ.
Điều 12. Tống đạt giấy tờ và xét hỏi công dân của nước mình
Hai nước ký kết có quyền tống đạt giấy tờ và xét hỏi công dân của nước mình thông qua đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của mình.
Điều 13. Thông tin pháp luật
Bộ Tư pháp và Viện Kiểm sát Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Bộ Tư pháp và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể theo yêu cầu của mỗi bên, sẽ thông báo cho nhau về các văn bản pháp luật đang có hiệu lực hoặc trước đây có hiệu lực trên lãnh thổ của nước mình và về vấn đề áp dụng các văn bản đó của các cơ quan tư pháp.
Điều 14. Tiếng nói
Trong việc tương trợ tư pháp các cơ quan của hai nước ký kết sẽ sử dụng tiếng Nga hoặc tiếng Việt nếu Hiệp định này không quy định khác.
Điều 15. Chi phí liên quan đến việc tương trợ tư pháp
1. Nước ký kết được yêu cầu sẽ không đòi thanh toán các chi phí trong việc tương trợ tư pháp. Mỗi nước ký kết chịu tất cả những chi phí về tương trợ tư pháp trên lãnh thổ của mình.
2. Cơ quan tư pháp được yêu cầu sẽ thông báo cho cơ quan tư pháp yêu cầu tổng số chi phí. Nếu cơ quan tư pháp yêu cầu thu được số chi phí này ở đương sự có trách nhiệm phải nộp, số tiền thu được sẽ thuộc quyền nước ký kết đã thu.
Chương II.
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ GIA ĐÌNH
Điều 16. Miễn cược án phí
Không thể bắt buộc công dân của một trong hai nước ký kết đang sống trên lãnh thổ của một trong hai nước này phải nộp tiền cược án phí khi họ tham gia tố tụng ở nước ký kết kia, chỉ vì họ là người nước ngoài hoặc vì họ không có chỗ thường trú ở nước ký kết, nơi họ tham gia tố tụng.
Điều 17. Những ưu đãi trong tố tụng
1. Công dân của một nước ký kết được miễn trên lãnh thổ của nước ký kết kia các khoản lệ phí và chi phí liên quan đến việc giải quyết vụ án, cũng như được hưởng sự giúp đỡ pháp lý không mất tiền theo cùng những điều kiện và mức độ như đối với công dân của nước ký kết kia.
2. Những ưu đãi quy định ở khoản 1 được áp dụng đối với tất cả các hành vi tố tụng, kể cả việc thi hành quyết định của Tòa án.
Điều 18.
1. Những ưu đãi quy định ở Điều 17 được cho hưởng trên cơ sở các giấy tờ về tình trạng nhân thân, gia đình và tài sản của người ưu đãi. Giấy tờ này do cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết nơi trú quán hoặc tạm trú của người xin ưu đãi cấp.
2. Nếu người xin ưu đãi không có nơi cư trú hoặc nơi tạm trú trên lãnh thổ của hai nước ký kết, thì chỉ cần giấy chứng nhận do cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của nước ký kết mà người ấy là công dân cấp.
Điều 19.
1. Công dân của một nước ký kết muốn xin hưởng trên lãnh thổ của nước ký kết kia các ưu đãi quy định ở Điều 17, có thể đưa đơn qua cơ quan có thẩm quyền của nước mình. Cơ quan này sẽ chuyển đơn kèm theo các giấy chứng nhận quy định ở Điều 18 và những giấy tờ cần thiết khác của người đứng đơn cho cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết kia.
2. Cùng một lúc với việc chuyển đơn xin hưởng các ưu đãi quy định ở Điều 17, có thể chuyển cả đơn khởi tố cũng như đơn xin chỉ định người đại diện hoặc những nơi cần thiết khác.
3. Cơ quan giải quyết đơn xin ưu đãi có thể yêu cầu cơ quan đã cấp giấy chứng nhận giải thích hoặc cung cấp thêm những điều cần thiết.
Điều 20. Đình chỉ vụ kiện
Nếu Tòa án của cả hai nước ký kết đều có thẩm quyền theo Hiệp định này hoặc trong trường hợp Hiệp định này không quy định mà họ có thẩm quyền theo pháp luật của nước mình, cùng thụ lý một vụ kiện có cùng một bên đương sự và cùng một nội dung, thì Tòa án nào thụ lý sau sẽ phải đình chỉ tố tụng và báo cho các bên đương sự biết.
QUY CHẾ NHÂN THÂN VÀ LUẬT GIA ĐÌNH
Điều 21. Năng lực hành vi và năng lực pháp lý
1. Năng lực hành vi của một người do pháp luật của nước ký kết mà người đó là công dân quy định.
2. Khi ký kết những giao kèo nhỏ phục vụ sinh hoạt thì năng lực hành vi của một người do pháp luật của nước ký kết nơi ký giao kèm quy định.
3. Năng lực pháp lý của một pháp nhân do pháp luật của nước ký kết đã thành lập pháp nhân đó quy định.
Điều 22. Công nhận người mất tích hoặc chết và xác nhận sự kiện chết
1. Việc công nhận một người mất tích hoặc chết cũng như việc xác nhân sự kiện chết thuộc thẩm quyền những cơ quan của nước ký kết mà theo những tin tức cuối cùng, người đó là công dân khi còn sống.
2. Theo đơn yêu cầu của người cư trú trên lãnh thổ nước mình, các cơ quan tư pháp tư pháp của nước ký kết này có thể công nhận việc mất tích, việc chết hoặc xác định sự kiện chết của công dân nước ký kết kia, nếu theo pháp luật của nước họ đang cư trú người đứng đơn có quyền và lợi ích.
3. Trong những trường hợp nói ở các khoản 1 và 2 trên đây, các cơ quan tư pháp của các nước ký kết áp dụng pháp luật cho nước mình.
Điều 23. Kết hôn
1. Việc kết hôn giữa công dân nước ký kết này với công dân nước ký kết kia phải tuân theo những điều kiện kết hôn do pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân quy định. Ngoài ra, người kết hôn phải tuân theo pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành việc kết hôn về những trường hợp ngăn cấm kết hôn.
2. Nghi thức kết hôn do pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành việc kết hôn quy định.
Điều 24. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng
1. Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng đang cùng sống được quy định theo pháp luật của nước ký kết ở đó họ có nơi thường trú.
2. Nếu hai vợ chồng cùng quốc tịch mà người cư trú trên lãnh thổ nước ký kết này, người cư trú trên lãnh thổ nước ký kết kia, thì quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa họ sẽ theo pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân.
3. Nếu hai vợ chồng không cùng quốc tịch mà người cư trú trên lãnh thổ nước ký kết này, người cư trú trên lãnh thổ nước ký kết kia, thì quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa họ sẽ theo pháp luật của nước ký kết ở đó họ có nơi cư trú chung cuối cùng.
4. Nếu hai vợ chồng, nói ở khoản 3 trên đây, mà không có nơi cư trú chung, thì áp dụng pháp luật của nước ký kết có Tòa án đã nhận đơn kiện.
5. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vấn đề thuộc về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng là các cơ quan của nước ký kết được phép áp dụng pháp luật của mình theo những khoản 1, 2 và 3. Đối với trường hợp quy định ở khoản 4 thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án của cả hai nước ký kết.
Điều 25. Ly hôn
1. Nếu hai vợ chồng cùng là công dân một nước ký kết thì việc ly hôn sẽ tiến hành theo pháp luật của nước ký kết mà họ là công dân khi đưa đơn ly hôn.
2. Nếu hai vợ chồng người có quốc tịch của nước ký kết này, người có quốc tịch của nước ký kết kia thì cơ quan tư pháp đã nhận đơn sẽ tiến hành tố tụng theo pháp luật của nước mình.
3. Về trường hợp ly hôn nói ở khoản 1 điều nay, thì thẩm quyền giải quyết thuộc về các cơ quan tư pháp của nước ký kết mà cả hai vợ chồng là công dân khi đưa đơn ly hôn. Nếu khi đưa đơn ly hôn cả hai vợ chồng đều cư trú trên lãnh thổ của nước ký kết kia thì các cơ quan tư pháp của nước ký kết kia cũng có thẩm quyền.
4. Về trường hợp ly hôn nói ở khoản 2 điều này, cơ quan tư pháp có thẩm quyền là cơ quan tư pháp của nước nơi cả hai vợ chồng đang cư trú. Nếu hai vợ chồng không cư trú ở một nước ký kết thì cơ quan tư pháp của cả hai nước ký kết đều có thẩm quyền giải quyết.
Điều 26. Hôn nhân vô hiệu
1. Đối với việc xác định một hôn nhân là vô hiệu thì áp dụng pháp luật theo tinh thần Điều 23 về kết hôn.
2. Thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc công nhận hôn nhân vô hiệu được xác định theo các khoản 3 và 4 của Điều 25 Hiệp định này.
Điều 27. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái
1. Đối với việc xác nhận hay khước từ quan hệ cha con, sẽ áp dụng pháp luật của nước ký kết mà đứa trẻ là công dân khi sinh ra.
2. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi họ đang cùng cư trú.
3. Nếu cha mẹ hoặc một trong hai người cư trú ở nước ký kết này còn đứa trẻ lại cư trú ở nước ký kết kia, thì quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái do pháp luật của nước ký kết nơi đứa trẻ đang cư trú quy định.
4. Về việc cha mẹ cấp dưỡng con cái và con cái đã thành niên cấp dưỡng cha mẹ thì theo pháp luật của nước ký kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng đang cư trú.
5. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định về quan hệ pháp luật nói ở khoản 1 điều này là cơ quan tư pháp của nước ký kết mà đứa trẻ là công dân hoặc đang có nơi cư trú. Về trường hợp nói ở các khoản 2, 3 và 4, thẩm quyền giải quyết thuộc cơ quan tư pháp của nước ký kết nơi nguyên đơn đang cư trú.
Điều 28. Nuôi con nuôi
1. Đối với việc nuôi con nuôi sẽ áp dụng pháp luật của nước ký kết mà người nhận nuôi là công dân vào lúc nhận nuôi.
2. Nếu pháp luật của nước ký kết mà đứa trẻ là công dân đòi hỏi phải có sự đồng ý của đứa trẻ hoặc của những người đại diện hợp pháp của nó, cũng như sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền, thì nhất thiết phải đáp ứng yêu cầu này.
3. Trong trường hợp hai vợ chồng cùng nhận nuôi mà chồng là công dân của nước ký kết này, vợ là công dân của nước ký kết kia, thì áp dụng pháp luật của cả hai nước.
4. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi là cơ quan của nước ký kết mà người nhận nuôi là công dân. Trong trường hợp ở khoản 3 điều này thì cơ quan tư pháp có thẩm quyền là cơ quan của nước ký kết nơi hai vợ chồng đang có hoặc đã có nơi cú trú hoặc nơi tạm trú chung.
5. Những quy định ở các khoản 1, 2, 3 và 4 trên đây cũng áp dụng đối với việc hủy bỏ nuôi con nuôi.
Điều 29. Giám hộ và trợ tá
1. Nếu như Hiệp định này không quy định khác, việc giám hộ và trợ tá đối với công dân của các nước ký kết do cơ quan tư pháp của nước ký kết mà người được giám hộ hoặc trợ tá là công dân quyết định.
2. Điều kiện đặt và hủy bỏ giám hộ và trợ tá do pháp luật của nước ký kết mà người được giám hộ hoặc trợ tá là công dân quy định.
3. Quan hệ pháp luật giữa người giám hộ, hoặc người trợ tá và người được giám hộ, trợ tá sẽ theo pháp luật của nước ký kết đã chỉ định người giám hộ, người trợ tá.
4. Về nghĩa vụ nhận giám hộ hoặc trợ tá thì theo pháp luật của nước ký kết mà người được chỉ định làm giám hộ, trợ tá là công dân.
5. Công dân của nước ký kết này có thể được chỉ định làm người giám hộ, trợ tá cho công dân của nước ký kết kia, nếu họ đang ở nước ký kết nơi sẽ tiến hành việc giám hộ hoặc trợ tá.
Điều 30.
1. Nếu nước ký kết này thấy cần thiết phải đặt giám hộ hoặc trợ tá cho công dân nước ký kết kia có trú quan, nơi tạm trú hoặc tài sản ở nước mình, thì cơ quan có thẩm quyền của nuớc ký kết đó phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền nói ở khoản 1 Điều 29 của nước ký kết kia biết.
2. Trong trường hợp khẩn cấp các cơ quan có thẩm quyền của nước trên đây sẽ căn cứ vào pháp luật của nước mình mà tiến hành những biện pháp tạm thời cần thiết, những phải thông báo ngay cho các cơ quan có thẩm quyền nói ở khoản 1 Điều 29 của nước ký kết kia biết. Những biện pháp đó có hiệu lực cho đến khi các cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết kia ra những quyết định khác.
Điều 31.
1. Những cơ quan của nước ký kết có công dân cần được giám hộ hoặc trợ tá, có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết kia đặt giám hộ, trợ tá hoặc cho tiến hành những biện pháp tạm thời, nếu người cần được giám hộ, trợ tá có nơi cư trú hoặc nơi tạm trú ở nước ký kết kia. Các cơ quan yêu cầu cần thông báo cho các cơ quan yêu cầu về việc chỉ định giám hộ, trợ tá cũng như về việc tiến hành các biện pháp tạm thời.
2. Nếu công dân của nước ký kết này, sau khi đã được đặt giám hộ, trợ tá, lại chuyển nơi cư trú sang nước ký kết kia, thì cơ quan đã ra quyết định đặt giám hộ, trợ tá có thể đề nghị cơ quan của nước ký kết kia duy trì việc giám hộ hoặc trợ tá. Việc giám hộ hoặc trợ tá coi như được chuyển giao khi cơ quan được yêu cầu tiếp nhân và thông báo điều này cho cơ quan yêu cầu biết.
3. Cơ quan đã tiếp nhận việc giám hộ hoặc trợ tá sẽ căn cứ vào pháp luật của nước mình để thực hiện việc giám hộ, trợ tá. Những cơ quan này không có quyền ra quyết định về các vấn đề liên quan tới quy chế nhân thân của người được giám hộ, trợ tá.
Điều 32. Hình thức giao kèo
1. Hình thức giao kèo phải tuân thủ theo pháp luật áp dụng đối với từng loại giao kèo. Nhưng chỉ cần tuân theo pháp luật của nơi thực hiện giao kèo.
2. Hình thức giao kèo về bất động sản thì phải tuân theo pháp luật của nước ký kết có bất động sản.
Điều 33. Trách nhiệm do gây thiệt hại
1. Về trách nhiệm do gây thiệt hại, áp dụng pháp luật của nước ký kết nơi xảy ra những hành vi hoặc những tình tiết khác là cơ sở để đòi bồi thường thiệt hại.
2. Nếu người gây thiệt hại hoặc người bị hại đều là công dân của một nước ký kết thì áp dụng pháp luật của nước đó.
3. Áp dụng pháp luật của nước ký kết nào thì cơ quan tư pháp của nước đó có thẩm quyền ra quyết định đối với những việc đã nói ở các khoản 1 và 2 điều nay.
THỪA KẾ
Điều 34. Nguyên tắc bình đẳng
Công dân nước ký kết này bình đẳng với công dân nước ký kết kia trong việc lập hoặc hủy bỏ di chúc đối với tài sản đang có và các quyền cần thực hiện ở nước ký kết kia, cũng như về khả năng được nhận tài sản hoặc các quyền theo thừa kế. Việc chuyển tài sản và các quyền cho công dân nước ký kết này theo đúng những điều kiện mà nước ký kết kia dành cho công dân của mình.
Điều 35. Quyền thừa kế
1. Pháp luật điều chỉnh quyền thừa kế bất động sản là pháp luật của nước ký kết mà người để lại tài sản thừa kế là công dân khi chết.
2. Pháp luật điều chỉnh quyền thừa kế bất động sản là pháp luật của nước ký kết nơi có bất động sản.
3. Việc phân biệt một tài sản thừa kế là động sản hay bất động sản được giải quyết theo pháp luật của nước ký kết nơi có tài sản đó.
Điều 36. Chuyển giao tài sản thừa kế cho Nhà nước
Nếu theo pháp luật của các nước ký kết mà tài sản thừa kế sẽ chuyển giao cho Nhà nước, thì động sản thuộc về nước mà người thừa kế là công dân khi chết, còn bất động sản thì thuộc về nước nơi có bất động sản.
Điều 37. Di chúc
1. Năng lực lập hoặc hủy bỏ di chúc và hậu quả pháp lý của những người khuyết nhược điểm về thể hiện ý chí của người để lại di chúc được xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người để lại di chúc là công dân khi lập hoặc hủy bỏ di chúc.
2. Hình thức di chúc được xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người để lại di chúc là công dân khi lập hoặc hủy bỏ di chúc. Tuy nhiên cũng hợp thức nếu chỉ tuân theo pháp luật của nước ký kết nơi lập hoặc hủy bỏ di chúc.
Điều 38. Thẩm quyền giải quyết về thừa kế
1. Thẩm quyền giải quyết thừa kế động sản thuộc cơ quan tư pháp của nước ký kết mà người để lại của thừa kế là công dân khi chết.
2. Thẩm quyền giải quyết thừa kế bất động sản thuộc cơ quan tư pháp của nước ký kết nơi có bất động sản.
3. Những quy định ở khoản 1 và 2 điều này áp dụng cho cả những tranh chấp về thừa kế.
Điều 39. Biện pháp bảo quản tài sản thừa kế
1. Cơ quan của một nước ký kết, căn cứ vào pháp luật của nước mình, tiến hành các biện pháp cần thiết để giữ gìn hoặc quản lý tài sản thừa kế của công dân nước ký kết kia để ở lãnh thổ nước mình.
2. Những biện pháp được áp dụng theo khoản 1 cần được thông báo ngay cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của nước ký kết kia để các cơ quan này có thể tham gia vào việc thực hiện những biện pháp ấy. Theo yêu cầu của cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự, những biện pháp áp dụng theo khoản 1 có thể được thay đổi, hủy bỏ hoặc hoãn thi hành.
3. Theo yêu cầu của cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết về thừa kế, những biện pháp áp dụng theo khoản 1 có thể được thay đổi, hủy bỏ hoặc hoãn thi hành.
Điều 40. Gửi di chúc
Nếu bản di chúc để ở nước ký kết này, mà thẩm quyền giải quyết việc thừa kế lại thuộc cơ quan tư pháp của nước ký kết kia, thì phải gửi cho cơ quan này bản sao đã được thị thực của di chúc, nếu được yêu cầu thì gửi cả bản gốc.
CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
Điều 41. Công nhận những quyết định về các vụ kiện không mang tính chất tài sản
Những quyết định đã có hiệu lực pháp luật về các vụ kiện dân sự (cả lao động) và gia đình không mang tính chất tài sản do các cơ quan tư pháp, hộ tịch, cũng như cơ quan giám hộ và trợ tá của một nước ký kết đã ra được công nhận trên lãnh thổ của nước ký kết kia không cần xử tiếp, nếu không có cơ sở để từ chối việc công nhận như quy định ở Điều 46. Những quyết định trên đây được công nhận trong cả trường hợp chúng được ra trước khi Hiệp định này có hiệu lực.
Điều 42. Công nhận và thi hành những quyết định về các vụ kiện mang tính chất tài sản
Theo những điều kiện quy định trong Hiệp định này, mỗi nước ký kết công nhận và thi hành những quyết định đã có hiệu lực pháp luật dưới đây được ra trên lãnh thổ nước ký kết kia sau khi Hiệp định này có hiệu lực:
1. Những quyết định của các cơ quan tư pháp về các vụ kiện về dân sự (cả lao động) và gia đình mang tính chất tài sản.
2. Những thỏa thuận qua việc hòa giải đã được Tòa án công nhận.
3. Phần bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra trong các án hình sự.
Điều 43. Đơn xin cho thi hành quyết định
1. Đơn xin cho thi hành quyết định phải đưa đến cơ quan tư pháp đã ra quyết định về vụ kiện. Cơ quan này sẽ chuyển đơn tới Tòa án có thẩm quyền ra quyết định về đơn đó theo Điều 45 Hiệp định này. Nếu người đưa đơn xin cho thi hành quyết định lại có nơi cư trú hoặc nơi tạm trú ở nước ký kết nơi sẽ thi hành quyết định, thì có thể đưa đơn trực tiếp cho Tòa án có thẩm quyền của nước này.
2. Về những điều cần nói trong đơn thì theo pháp luật của nước ký kết nơi thi hành quyết định.
Điều 44. Những giấy tờ kèm theo đơn xin cho thi hành quyết định
Đơn xin cho thi hành quyết định phải kèm theo những giấy tờ sau đây:
1. Một bản sao quyết định có thị thực của cơ quan tư pháp kèm theo giấy chứng nhận quyết định đã có hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành nếu như lời văn của quyết định không nói rõ điều này.
2. Một văn bản xác nhận người bị đơn không tham gia tố tụng hoặc người đại diện có thẩm quyền của người đó đã được tống đạt giấy gọi đến Tòa án kịp thời và đúng thể thức.
3. Các bản dịch đã được thị thực của những giấy tờ nêu trong điều này cũng như bản dịch của đơn xin.
Điều 45. Cho thi hành quyết định
1. Đơn xin cho thi hành quyết định do Tòa án của nước ký kết nơi quyết định phải được thi hành, giải quyết.
2. Tòa án xét đơn xin cho thi hành quyết định chỉ cần xác định rằng những điều kiện quy định trong Hiệp định này đã được tuân theo. Trong trường hợp, những điều kiện đó đã được tuân theo, Tòa án cho phép thi hành.
3. Nếu khi xét đơn xin cho thi hành quyết định thấy có những điều kiện chưa rõ, tòa án có thể yêu cầu người đứng đơn giải thích cũng như lấy lời khai của người thua kiện về thực chất của đơn xin cho thi hành và trong trường hợp cần thiết, yêu cầu cơ quan tư pháp đã ra quyết định giải thích.
Điều 46. Từ chối việc công nhận và thi hành quyết định
Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối:
1. Nếu bị đơn không tham gia tố tụng vì lý do bị đơn hay người đại diện có thẩm quyền đã không được tống đạt giấy gọi ra tòa kịp thời và đúng thể thức.
2. Nếu về cùng đối tượng tranh chấp, giữa cùng các bên đương sự, trên cùng cơ sở, cơ quan của nước ký kết nơi quyết định cần được công nhận và thi hành, trước đó đã ra quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc đã tiến hành tố tụng.
3. Nếu theo Hiệp định này hoặc trong trường hợp Hiệp định này không quy định mà theo pháp luật của nước ký kết nơi quyết định cần được công nhận và thi hành vụ kiện thuộc thẩm quyền riêng của các cơ quan nước ký kết đó.
Điều 47. Thi hành quyết định
1. Thủ tục thi hành quyết định do pháp luật của nước ký kết nơi thi hành quy định.
2. Người thua kiện có thể xin chống lại việc thi hành nếu pháp luật của nước ký kết có cơ quan tư pháp đã ra quyết định cho phép.
3. Chi phí về việc thi hành quyết định do pháp luật của nước ký kết nơi thi hành quyết định.
Điều 48. Thi hành quyết định về án phí
1. Nếu một người được miễn cước án phí theo Điều 16 lại bị buộc phải nộp án phí trên lãnh thổ của nước ký kết thì, thể theo yêu cầu, Tòa án liên quan của nước ký kết kia sẽ cho thi hành trên lãnh thổ của nước mình quyết định bắt chịu án phí mà không thu một khoản tiền nào.
2. Ngoài án phí còn thu các khoản lệ phí về dịch và chứng thực các giấy tờ nêu trong Điều 44.
Điều 49.
1. Đơn xin cho thi hành quyết định thu án phí phải kèm theo một bản sao quyết định được Tòa án thị thực về các khoản chi phí và một giấy chứng nhận là quyết định đã có hiệu lực pháp luật và cần phải được thi hành,
2. Các giấy tờ đã nếu trên đây phải kèm theo bản dịch ra tiếng của nước ký kết nơi thi hành quyết định.
3. Tòa án cho phép thi hành quyết định về thu án phí chỉ cần kiểm tra xem:
1) Quyết định đã có hiêu lực pháp luật và cần phải thi hành chưa.
2) Các giấy tờ nói ở khoản 1 có được kèm theo bản dịch được chứng thực không.
4. Quyết định của Tòa án về việc cho thi hành có thể bị khiếu nại theo pháp luật của nước ký kết có Tòa án đã ra quyết định đó.
Điều 50.
Đơn xin cho thi hành quyết định về án phí trên lãnh thổ của nước ký kết khác được gửi đến Tòa án có thẩm quyền cho thi hành của nước ký kết ấy, hoặc gửi đến Tòa án đã ra quyết định về án phí. Ở trường hợp sau, Tòa án nhận được đơn sẽ chuyển đơn cùng với những giấy tờ quy định ở Điều 49 đến Tòa án có thẩm quyền của nước ký kết kia.
Điều 51.
1. Tòa án giải quyết việc cho thi hành quyết định về án phí không cần gọi hỏi các bên đương sự.
2. Không được từ chối việc cho thi hành quyết định về án phí với lý do người đưa đơn không nộp trước những chi phí về thi hành quyết định.
Điều 52. Chuyển đồ vật và chuyển tiền
Về việc chuyển đồ vật và chuyền tiền theo Hiệp định này từ nước ký kết này sang nước ký kết kia, sẽ áp dụng pháp luật của nước mà đồ vật và tiền được chuyển đi từ nước đó.
Chương III.
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ DẪN ĐỘ
Điều 53. Trách nhiệm dẫn độ
1. Chiếu theo yêu cầu của nhau, các nước ký kết có trách nhiệm căn cứ vào các điều kiện đã được Hiệp định này quy định, dẫn độ những can phạm đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước ký kết kia để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc sẽ thi hành án.
2. Chỉ dẫn độ những ngươi đã có những hành vi mà theo pháp luật của cả hai nước ký kết là tội phạm bị phạt tù trên một năm hoặc bị hình phạt nặng hơn. Việc dẫn độ để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật được áp dụng đối với những người phạm tội trên bị phạt không dưới sáu tháng tù hoặc bị hình phạt nặng hơn.
Điều 54. Từ chối dẫn độ
1. Sẽ không có dẫn độ, nếu:
1) Người bị dẫn độ là công dân của nước được yêu cầu dẫn độ.
2) Vào lúc nhận được yêu cầu dẫn độ, căn cứ vào pháp luật của nước được yêu cầu, việc khởi tố cụ án hoặc thi hành bản án không thể thực hiện được vì lý do thời hiệu hoặc vì lý do khác đã được pháp luật của nước này quy định.
3) Người bị yêu cầu dẫn độ đã bị kết án trên lãnh thổ của nước được yêu cầu về cùng một tội phạm và bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc tố tụng đã bị đình chỉ.
4) Theo pháp luật của hai nước ký kết, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo thủ tục tư tố.
2. Việc dẫn độ có thể bị từ chối, nếu tội phạm dẫn đến việc yêu cần dẫn độ đã hoàn thành trên lãnh thổ của nước được yêu cầu.
3. Trường hợp từ chối dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu sẽ thông báo cho nước ký kết yêu cầu biết các lý do không dẫn độ.
Điều 55. Đơn yêu cần dẫn dộ
1. Đơn yêu cầu dẫn độ cần nêu đủ các điểm sau đây:
1) Tên cơ quan yêu cầu.
2) Điều luật của nước ký kết yêu cầu, theo đó hành vi bị coi là tội phạm.
3) Họ tên, quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi tạm trú và nếu có thể được thì tả nhận dạng và cung cấp những tài liệu khác về nhân thân người bị yêu cầu dẫn độ.
4) Nếu tội phạm đã gây thiệt hại thì nêu cả mức độ thiệt hại.
2. Đơn yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự phải kèm theo một bản sao lệnh bắt giữ người phạm tội có thị thực và bản miêu tả việc phạm tội.
3. Đơn yêu cầu dẫn độ để thi hành án phải kèm theo bản sao có thị thực của bản án và xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật và các điều luật hình sự làm căn cứ để kết án người bị yêu cầu dẫn độ. Nếu người này đã chấp hành một phần hình phạt, thì cũng phải thông báo điều đó.
Điều 56. Bắt giữ để dẫn độ
Nhận được đơn yêu cầu dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu cần nhanh chóng tiến hành các biện pháp cần thiết để bắt người bị yêu cầu dẫn độ, trừ những trường hợp mà Hiệp định này không cho phép dẫn độ.
Điều 57. Bổ sung tài liệu
1. Nếu đơn yêu cầu dẫn độ chưa có đủ các tài liệu cần thiết, thì nước ký kết được yêu cầu có thể đòi nước ký kết kia bổ sung. Thời gian ấn định cho việc cung cấp thêm tài liệu không qua hai tháng. Nếu có lý do chính đáng thì thể theo đề nghị của nước yêu cầu dẫn độ, có thể gia hạn, nhưng cũng không quá hai tháng nữa.
2. Cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết được yêu cầu có thể chấm dứt thủ tục dẫn độ và trả lại tự do cho người bị bắt giữ nếu sau thời hạn quy định hoặc sau thời gian gia hạn, không ngânh được những tài liệu bổ sung cần thiết.
Điều 58. Bắt giữ trước khi nhận được yêu cầu dẫn độ
1. Trong trường hợp không thể trì hoãn, thể theo yêu cầu của nước ký kết này, nước ký kết kia vẫn có thể bắt giữ người phạm tội mặc dù chưa nhận được đơn yêu cầu dẫn độ nói ở Điều 55. Đơn yêu cầu bắt giữ trước cần viện dẫn lệnh bắt giữ hoặc bản án đã có hiệu lực pháp luật và nêu rõ đơn yêu cầu dẫn độ sẽ được chuyển đến nước được yêu cầu trong thời gian ngắn nhất. Đơn yêu cầu bắt giữ trước có thể chuyển bằng bưu chính, điện thoại, điện tín và các phương tiện khác.
2. Cơ quan có thẩm quyền của mỗi nước ký kết có thể bắt giữ tạm thời những người đang ở trên lãnh thổ của nước mình, mặc dù không có yêu cầu như quy định ở khoản 1 Điều này, nếu có cơ sở để nghi ngờ người đó đã phạm tội trên lãnh thổ của nước ký kết kia và do đó phải dẫn độ.
3. Việc bắt giữ theo quy định của khoản 1 và 2 cần được thông báo ngay cho bên ký kết kia biết.
Điều 59. Trả lại tự do cho người tạm bị bắt giữ
Người bị bắt giữ theo quy định của Điều 58 sẽ được trả lại tự do nếu nước bắt giữ không nhận được yêu cầu dẫn độ trong vòng 30 ngày, kể từ ngày nước ký kết kia được thông báo về việc bắt giữ. Việc trả lại tự do cho người bị bắt giữ cần được thông báo cho nước ký kết kia biết.
Điều 60. Hoãn dẫn độ
Nếu người bị dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải thi hành hình phạt vì một tội phạm khác trên lãnh thổ của nước ký kết được yêu cầu dẫn độ, thì có thể hoãn việc dẫn độ đến khi kết thúc tố tụng hình sự, thi hành xong hình phạt, hoặc tha trước thời hạn.
Điều 61. Dẫn độ tạm thời
1. Nếu việc hoãn dẫn độ nói ở Điều 60 có thể làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị thời hiệu hoặc việc tiến hành tố tụng hình sự sẽ gặp khó khăn thì có thể cho dẫn độ tạm thời thể theo yêu cầu có căn cứ của nước ký kết kia.
2. Khi tiến hành xong các hành vi tố tụng hình sự phải trả ngay người bị dẫn độ tạm thời cho nước ký kết đã cho dẫn độ.
Điều 62. Xung đột giữa các yêu cầu dẫn độ
Nếu nhiều nước yêu cầu dẫn độ cùng một người thì nước ký kết được yêu cầu sẽ xem xét yêu cầu của từng nước để quyết định nên thỏa mãn nước nào.
Điều 63. Giới hạn của việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị dẫn độ
1. Nếu không có sự thỏa thuận của nước ký kết đã cho dẫn độ thì không được truy cứu trách nhiệm hình sự, không được bắt chịu hình phạt về một tội mà người bị dẫn độ đã phạm trước khi bị dẫn độ và không phải là căn cứ để bị dẫn độ.
2. Nếu không được sự đồng ý của nước ký kết đã dẫn độ thì không được dẫn độ người đó cho một nước thứ ba.
3. Trong những trường hợp sau đây thì không cần sự thỏa thuận của nước ký kết đã cho dẫn độ:
a) Người bị dẫn độ mặc dù có điều kiện đã không rời khỏi lãnh thổ của nước ký kết đã yêu cầu dẫn độ trong thời hạn một tháng, kể từ ngày kết thúc tố tụng hình sự, kết thúc việc thi hành hình phạt hay từ ngày được tha trước thời hạn. Sẽ không tính vào thời hạn này thời gian mà người bị dẫn độ không thể rời khỏi nước trên dây vì lý do không phụ thuộc vào người đó.
b) Người bị dẫn độ sau khi rời khỏi lãnh thổ của mình đã yêu cầu dẫn độ, lại tự ý quay lại nước đó.
Điều 64. Thực hiện dẫn độ
1. Nước ký kết được yêu cầu dẫn độ có trách nhiệm thông báo cho nước ký kết kia biết thời gian và địa điểm dẫn độ.
2. Người bị dẫn độ sẽ được trả lại tự do nếu nước yêu cầu dẫn độ không tiếp nhận người đó trong vòng 15 ngày, kể từ ngày ấn định cho việc giao nhận. Nếu có sự thỏa thuận của hai bên thì có thể gia hạn, nhưng không được quá 15 ngày nữa.
Điều 65. Dẫn độ lại
Nếu người bị dẫn độ trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc việc thi hành hình phạt và quay trở lại nước ký kết đã cho dẫn độ thì thể theo yêu cầu mới của nước ký kết kia, người đó sẽ bị dẫn độ lại mà không cần phải làm lại các thủ tục nói ở Điều 55 Hiệp định này.
Điều 66. Thông báo kết quả tố tụng hình sự
Nước ký kết sau khi nhận được người bị dẫn độ sẽ thông báo cho nước ký kết kia biết kết quả của tố tụng hình sự. Nếu có yêu cầu thì sẽ gửi cho người kia một bản sao quyết định cuối cùng.
Điều 67. Quá cảnh
1. Mỗi nước ký kết Hiệp định, thể theo yêu cầu của nhau, cho phép vận chuyển qua lãnh thổ của nhau những người mà nước thứ ba chuyển giao cho nước ký kết bên kia.
Các nước ký kết không nhất thiết phải cho phép vận chuyển qua lãnh thổ mình những người mà Hiệp định này không cho dẫn độ.
2. Đơn yêu cầu dẫn độ quá cảnh nói trên phải làm và gửi theo đúng thể thức đã quy định cho đơn yêu cầu dẫn độ.
Điều 68. Chi phí cho dẫn độ và cho quá cảnh
Chi phí cho dẫn độ thực hiện trên lãnh thổ của nước ký kết nào do nước ấy chịu. Chi phí cho quá cảnh do nước yêu cần quá cảnh chịu.
TIẾN HÀNH TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Điều 69. Nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau, sẽ tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hình sự, phù hợp với pháp luật hiện hành của nước mình những công dân của mình bị tình nghi đã phạm tội trên lãnh thổ của nước ký kết kia.
2. Nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự, được áp dụng cả đối với những hành vi mà theo pháp luật của nước ký kết yêu cầu thì là tội phạm, còn theo pháp luật của nước được yêu cầu thì chỉ là những vi phạm hành chính.
3. Đơn yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự mà người bị hại gửi cho cơ quan có thẩm quyền theo đúng pháp luật của nước ký kết này trong thời hạn quy định cũng có giá trị trên lãnh thổ của nước ký kết kia.
4. Người bị thiệt hại do một hành vi phạm tôi của một người bị nước ký kết này yêu cầu nước ký kết kia truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tham gia tố tụng nếu họ nộp đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều 70. Ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Văn bản ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự cần nêu đủ các điểm sau đây:
a) Tên cơ quan yêu cầu.
b) Miên tả những hành vi đã dẫn đến việc ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự.
c) Nêu càng rõ càng tốt thời gian và địa điểm xảy ra hành vi phạm tội.
d) Điều luật của nước ủy thác quy định những hành vi đã xảy ra là tội phạm, kể cả những điều luật khác có ý nghĩa thiết thực đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
đ) Họ tên, quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi tạm trú của người bị tình nghi và cả những tài liệu cần thiết về nhân thân người đó.
g) Đơn của người bị hại nếu vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của họ, và đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
h) Mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra nếu có.
Văn bản ủy thác phải kèm theo hồ sơ điều tra và những chứng cứ mà nước ký kết yêu cầu đã thu thập được.
2. Nếu khi gửi giấy ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị can đang bị giam giữ ở nước ủy thác thì bị can sẽ bị dẫn giải trở lại nước được ủy thác.
3. Nước ký kết được ủy thác có trách nhiệm thông báo quyết định cuối cùng cho nước ký kết ủy thác biết. Nếu nước ký kết này đề nghị thì một bản sao quyết định cuối cùng sẽ được gửi cho nước đó.
Điều 71. Hậu quả của việc truy cứu trách nhiệm hình sự
Nếu các cơ quan của nước ký kết được yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 69 đã ra một bản án có hiệu lực pháp luật hoặc một quyết định cuối cùng khác, thì cơ quan của nước ký kết yêu cầu không thể khởi tố vụ án hình sự nữa, còn nếu đã khởi tố thì phải đình chỉ.
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC THUỘC TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ
Điều 72. Chuyển giao đồ vật liên quan đến vụ án
1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau, chuyển giao cho nhau những đồ vật sau đây:
a) Những đồ vật hoặc trị giá của những đồ vật do phạm tội mà có.
b) Những đồ vật có thể có ý nghĩa chứng của trong tố tụng hình sự: nếu việc dẫn độ không thực hiện được vì người phạm tội chết, chạy trốn hoặc vì nguyên nhân khác, thì những đồ vật đó vẫn phải được chuyển giao.
2. Nếu những đồ vật phải chuyển giao lại cần thiết làm chứng cứ cho tố tụng hình sự ở nước được yêu cầu, thì nước này có thể tạm giữ những đồ vật đó cho đến khi tiến hành xong tố tụng.
3. Quyền của người thứ ba đối với các đồ vật đã được chuyển giao cho nước yêu cầu được bảo đảm hoàn toàn. Sau khi kết thúc tố tụng hình sự, những đồ vật trên sẽ được trả lại vô điều kiện cho nước ký kết đã chuyển giao. Nếu không có hại gì cho tố tụng thì, trước khi xét xử xong, có thể trả những đồ vật đó cho chủ của nó. Nếu người có quyền đối với những đồ vật ấy đang ở nước ký kết yêu cầu, thì nước này, sau khi được sự thỏa thuận của nước ký kết kia, sẽ trả trực tiếp những đồ vật kể trên cho người đó.
Điều 73. Thông báo các bản án và án tích
1. Các nước ký kết cam kết, hàng năm sẽ thông báo cho nhau những bản án đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án nước mình đã tuyên xử đối với công dân của nước ký kết kia.
2. Các nước ký kết thể theo yêu cầu của nhau, thông báo cho nhau án tích của những người trước đây đã bị Tòa án nước mình xét xử, nếu những người đó đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở nước ký kết yêu cầu.
Điều 74. Cách thức liên hệ
Về các vấn đề dẫn độ và truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc các vấn đề khác nằm trong phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự, các nước ký kết sẽ liên hệ với nhau qua các cơ quan sau đây của mình: phía Liên Xô là Viện kiểm sát hoặc Bộ Tư pháp của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, phía Việt Nam là Viện kiểm sát hoặc Bộ Tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương IV
NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 75.
1. Hiệp định này cần được phê chuẩn.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày trao đổi thư phê chuẩn. Việc trao đổi thư phê chuẩn sẽ tiến hành ở Hà Nội.
3. Nếu nước ký kết này thông báo cho nước ký kết kia biết ý muốn chấm dứt hiệu lực của Hiệp định này thì Hiệp định vẫn tiếp tục có hiệu lực trong 1 năm kể từ ngày thông báo
Làm tại Mátxcơva ngày 10 tháng 12 năm 1981 thành hai bản, một bản bằng tiếng Nga và một bản bằng tiếng Việt, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau./.
THAY MẶT
ĐOÀN CHỦ TỊCH XÔ VIẾT TỐI CAO LIÊN BANG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÔ VIẾT
(Đã ký)
Terebilov V.I
|
THAY MẶT
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
Phan Hiền
|