Giới thiệu sơ lược về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015 (phần 5)

Giới thiệu sơ lược về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015 (phần 5)

Thực hiện vai trò là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp, theo quy định của Điều 62 Luật TTTP và Điều 6 Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTP và thực hiện yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Công văn số 2269/VPQH-TH ngày 18/9/2015 của Văn phòng Quốc hội phục vụ Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, ngành, Chính phủ báo cáo Quốc hội về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015. Vụ Pháp luật quốc tế tiếp tục thông tin về Phần thứ năm: Đánh giá về công tác tương trợ tư pháp năm 2015 và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tương trợ tư pháp năm 2016

1. Về kết quả đạt được

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành, Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp được đề xuất với Quốc hội tại Báo cáo hoạt động TTTP năm 2014, Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật TTTP, Báo cáo 20 năm thi hành Công ước New York 1958, trong đó phải kể đến những kết quả đáng lưu ý như sau:

- Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện hoạt động TTTP được chú trọng và đẩy mạnh. Chính phủ đặc biệt quan tâm, chỉ đạo sát sao các Bộ, ngành tích cực triển khai và hoàn thành đúng thời hạn các nhiệm vụ tổng kết, đánh giá thực tiễn công tác TTTP, công tác CN và THQĐTTNN đảm bảo toàn diện, thực chất và có gắn kết chặt chẽ với việc sửa đổi, bổ sung các đạo luật về tố tụng nhất là các quy định về tố tụng liên quan đến yếu tố nước ngoài. Kết quả tổng kết này không chỉ đánh giá thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác TTTP, CN và THQĐTTNN mà còn là cơ sở phục vụ trực tiếp cho việc sửa đổi, bổ sung các đạo luật tố tụng.

Các cơ quan đầu mối về TTTP trong từng lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao NĐCHHPT đều tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng kết, đánh giá thực tiễn và triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện UTTP nhằm đảm bảo triển khai đồng bộ từ cấp Trung ương đến địa phương. Với việc tăng cường hoạt động rà soát, đôn đốc thực hiện UTTP, kết quả thực hiện UTTP ở cả bốn lĩnh vực ngày càng được nâng cao, nghiêm túc và bài bản hơn. Đặc biệt, kết quả thực hiện rà soát thủ tục hành chính trong lĩnh vực TTTP về dân sự với đề xuất phương án cắt giảm 5/7 thủ tục là cơ sở để các Bộ, ngành sửa đổi quy trình thực hiện UTTP về dân sự rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí cho cả người dân và các cơ quan nhà nước.

- Về công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật về TTTP: Chính phủ và các Bộ đã phối hợp chặt chẽ với TANDTC, VKSNDTC để hoàn thiện các quy định về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn công tác TTTP. Các dự thảo BLTTDS, BLTTHS, Luật tố tụng hành chính đã được bổ sung, quy định mới nhiều nội dung tố tụng có liên quan trực tiếp đến TTTP nhằm đảm bảo sự đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật tố tụng nói chung và pháp luật về TTTP nói riêng, phù hợp với thực tiễn, mang tính hội nhập quốc tế cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã/sẽ ký kết, gia nhập. Những quy định mới này nhận được sự đồng thuận cao của các cơ quan hữu quan, các Đại biểu Quốc hội, khắc phục được cơ bản những bất cập của các đạo luật tố tụng hiện hành cũng như giải quyết những hạn chế, khó khăn phát sinh từ thực tiễn thực hiện UTTP trong công tác xét xử.

Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về tố tụng ở cấp luật, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì phối hợp chặt chẽ với TANDTC và Bộ Ngoại giao triển khai xây dựng Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 15 đúng kế hoạch. Điểm đáng lưu ý là Thông tư liên tịch mới này đã chủ động nội luật hóa các quy định và xây dựng các biểu mẫu cụ thể phù hợp với Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ. Đồng thời, các quy định của Thông tư liên tịch cũng được các Bộ, ngành soạn thảo phù hợp với những quy định của dự thảo BLTTDS; bổ sung những quy định cụ thể về trình tự thủ tục thu nộp chi phí thực tế thực hiện UTTP về dân sự. Thông tư liên tịch mới này sau khi được ban hành sẽ không chỉ góp phần tháo gỡ điểm nghẽn trong thực hiện UTTP thời gian qua mà đồng thời còn tạo cơ sở pháp lý trong nước sẵn sàng cho việc thực thi Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ một cách chủ động ngay khi Việt Nam chính thức gia nhập.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 bắt đầu được triển khai với những quy định mới về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức liên quan trực tiếp đến hoạt động TTTP[1] đã góp phần đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật TTTP, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho tổ chức thực hiện TTTP.

- Về công tác điều ước quốc tế, Chính phủ, các Bộ, ngành hoàn thành đúng kế hoạch đàm phán, ký các điều ước quốc tế về TTTP, nhất là sự chủ động và tích cực của Chính phủ trong việc trình Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định để Việt Nam có thể sớm chính thức gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ. Gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ sẽ góp phần trực tiếp giải quyết các ách tắc, vướng mắc, khó khăn trong hoạt động UTTP về tống đạt giấy tờ của Việt Nam hiện nay, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian cho các bên đương sự và cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết các vụ việc cần UTTP ra nước ngoài.

Bên cạnh đẩy mạnh thực hiện các thủ tục tham gia các điều ước quốc tế, Chính phủ, các Bộ, ngành cũng đã chủ động chuẩn bị các điều kiện trong nước từ hoàn thiện thể chế đến công tác tuyên truyền, tập huấn để sẵn sàng thực thi điều ước quốc tế đa phương. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để Việt Nam không chỉ có thể thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế mà hơn thế nữa là chủ động khai thác, tận dụng tối đa các quyền lợi cho Việt Nam.

Trong hợp tác song phương, Chính phủ, các Bộ, ngành tiếp tục chủ động và đẩy mạnh việc chuẩn bị đàm phán, đàm phán, ký kết các hiệp định TTTP song phương trong cả bốn lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao NĐCHHPT với gần 40 hiệp định.

- Về thực hiện các yêu cầu TTTP, các Cơ quan trung ương đều nghiêm túc thực hiện tốt vai trò đầu mối ở cả bốn lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao NĐCHHPT. Việc phối hợp nội bộ, công tác đôn đốc, rà soát, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện các hồ sơ UTTP được quan tâm, đẩy mạnh giúp cho việc lập hồ sơ UTTP gửi ra nước ngoài được đảm bảo đúng thủ tục, nhanh chóng. Về hợp tác đối ngoại, các cơ quan đầu mối cũng chủ động, tích cực kết nối, trao đổi trực tiếp với phía nước ngoài, qua đó góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, thống nhất được các biện pháp mới trong hoạt động phối hợp trực tiếp trong hoạt động TTTP giữa Việt Nam với các đối tác, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện các yêu cầu TTTP. Qua số liệu thực hiện UTTP cho thấy, mặc dù chưa được như mong muốn nhưng tỷ lệ số hồ sơ UTTP thực hiện năm 2015 có kết quả đều tăng so với năm trước trong cả bốn lĩnh vực. Kết quả này đã góp phần trực tiếp vào việc giải quyết các vụ việc dân sự, hình sự có yếu tố nước ngoài, trong đó có những vụ án nghiêm trọng, phức tạp[2], bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan, mang lại những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ trật tự an ninh và ổn định xã hội, đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước.

2. Về tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Về tồn tại và hạn chế

Mặc dù các Bộ, ngành đã có nhiều cố gắng nhưng công tác TTTP trong năm 2015 vẫn còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế cần được khắc phục trong giai đoạn tới, trong đó tập trung ở một số vấn đề chính như sau:

- Về công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước trong hoạt động TTTP, mặc dù sự phối hợp của các cơ quan đầu mối trong hoạt động TTTP đã có những chuyển biến tích cực, nhưng do tính chất khác nhau của các lĩnh vực TTTP, nhất là giữa lĩnh vực dân sự với lĩnh vực hình sự, dẫn độ và chuyển giao NĐCHHPT, đặc thù về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy giữa các cơ quan đầu mối nên sự phối hợp này vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn.

Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước chung về TTTP theo quy định của Luật TTTP khó phát huy hiệu quả; TANDTC chưa kiện toàn đơn vị đầu mối về hoạt động TTTP trong hệ thống các cơ quan Tòa án[3] nên việc phối hợp giữa TANDTC và các cơ quan có liên quan trong hoạt động TTTP chưa thật sự phát huy được hiệu quả như mong muốn; hoạt động kiểm tra, đôn đốc, rà soát tiến độ thực hiện UTTP chưa được triển khai đều ở cả bốn lĩnh vực và mới tập trung được vào hoạt động thực hiện TTTP trong nước.

- Về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, do các đạo luật tố tụng vẫn đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung, vì vậy, những bất cập tồn tại về thể chế liên quan đến TTTP vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện UTTP cũng như hoạt động tố tụng.

Mặc dù các Bộ, ngành đã hoàn thành việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TTTP theo quy định của Luật, nhưng qua thực tiễn áp dụng cho thấy bản thân các quy định hiện hành của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TTTP xuất hiện những khoảng trống, bất cập và chưa phù hợp với thực tiễn; chưa có quy định về cơ chế thu nộp chi phí thực hiện UTTP về dân sự làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện UTTP với những nước chưa ký Hiệp định TTTP với Việt Nam.

Sự thiếu gắn kết, chưa đồng bộ và hợp lý của pháp luật tố tụng trong nước liên quan đến TTTP cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết kịp thời các vụ việc dân sự, các vụ án hình sự có yêu cầu TTTP. Các văn bản pháp luật tố tụng hiện hành chưa có quy định riêng về trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết đối với những vụ, việc có yêu cầu TTTP hay cơ sở để giải quyết vụ việc khi không nhận được kết quả TTTP mà vẫn áp dụng một quy trình chung như đối với các vụ việc trong nước thông thường, với những quy định rất “cứng” và chặt chẽ về quy trình, thủ tục, giấy tờ mà để thực hiện mất rất nhiều thời gian. Điều này làm ảnh hưởng đến việc giải quyết kịp thời các vụ việc dân sự, vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Đặt trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định rất cụ thể về việc bảo vệ quyền con người trong đó bao gồm cả các quyền trong tố tụng thì việc kéo dài thời gian tố tụng, đặc biệt trong tố tụng hình sự có thể vi phạm các quy định này.

Cùng với những bất cập của pháp luật hiện hành như trên thì việc hoàn thiện các quy định về tố tụng có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là các quy định có liên quan đến TTTP chưa thật sự được quan tâm, đầu tư thỏa đáng so với nội dung khác trong quá trình sửa đổi, bổ sung các dự án luật tố tụng.

- Về công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về TTTP, trong năm 2015, mặc dù Chính phủ, các Bộ, ngành đều tích cực đẩy mạnh đề xuất việc đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về TTTP trong bốn lĩnh vực ở cả tầm đa phương và song phương, tuy nhiên, do còn có sự chưa thống nhất về thủ tục nên số lượng điều ước quốc tế được chính thức đàm phán, ký kết lại hạn chế và chậm về tiến độ. Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ đã được Chính phủ trình Chủ tịch nước từ tháng 12 năm 2014, dự kiến Việt Nam sẽ nộp văn kiện gia nhập Công ước vào Quý III năm 2015[4].Tuy nhiên, đến nay, các thủ tục trong nước vẫn chưa hoàn thành để nộp văn kiện gia nhập. Nguyên nhân là do chưa có giải thích chính thức về phạm vi các điều ước quốc tế phải trình Quốc hội quyết định gia nhập theo Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Phiên họp ngày 13/10/2015, vướng mắc đối với việc gia nhập Công ước Tống đạt đã được tháo gỡ.

Hoạt động rà soát, định kỳ đánh giá kết quả thực hiện các Hiệp định về TTTP mới chỉ được thực hiện đối với một số hiệp định trong lĩnh vực TTTP về dân sự, các lĩnh vực còn lại hầu như chưa được thật sự quan tâm thực hiện.

- Về thực hiện các yêu cầu UTTP về dân sự, những bất cập mang tính “kinh niên” trong thực hiện UTTP đã được nêu tại Báo cáo hoạt động TTTP năm 2014 và Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật TTTP vẫn chưa được giải quyết triệt để, cụ thể là: Tỷ lệ yêu cầu UTTP không có trả lời mặc dù đã giảm so với những năm trước nhưng vẫn ở mức cao (như trong lĩnh vực dân sự là gần 40%); thời gian thực hiện UTTP vẫn kéo dài; UTTP cho công dân Việt Nam ở nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tố tụng trong nước. Việc không có hoặc chậm có kết quả thực hiện UTTP đã ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Nhà nước và uy tín của các cơ quan tư pháp Việt Nam.

b) Về nguyên nhân

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế, khó khăn nêu trên cũng đã được Chính phủ, các Bộ, ngành xác định và phân tích, đánh giá trong quá trình tổng kết 6 năm thi hành Luật TTTP, tổng kết 20 năm thi hành Công ước New York 1958, có những nguyên nhân từ thể chế và thực thi pháp luật, về nhận thức của các cấp, các ngành về tầm quan trọng của công tác TTTP, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính cụ thể như sau:

Thứ nhất, nhận thức của các Bộ, ngành về vai trò, vị trí công tác TTTP để từ đó có đầu tư, quan tâm xây dựng thể chế cho lĩnh vực này, dù đã có tiến bộ, nhưng vẫn còn chưa đồng đều, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của đất nước. Hoạt động TTTP có đặc thù riêng, gắn với hoạt động tố tụng trong nước, điều ước quốc tế và hợp tác quốc tế, chịu sự tác động trực tiếp của tiến trình hội nhập quốc tế đồng thời nếu được thực hiện tốt cũng có tác động tích cực ngược trở lại. Tuy nhiên, các cơ quan xây dựng pháp luật chưa dành sự quan tâm thích đáng cho việc nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện thể chế xử lý những đặc thù riêng của các vụ việc, vụ án có yếu tố nước ngoài có yêu cầu TTTP trong bối cảnh phát triển mới.

Thứ hai, Luật TTTP bộc lộ những hạn chế nhất định. Qua tổng kết 6 năm thi hành Luật TTTP, các Bộ, ngành đều thống nhất đánh giá cách tiếp cận tổng hợp, điều chỉnh cả 04 lĩnh vực là TTTP về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao NĐCHHPT như Luật TTTP hiện hành là chưa thực sự phù hợp, làm cho Luật cồng kềnh, không có điểm trọng tâm, nhất là khi nội dung của các lĩnh vực không có nhiều gắn kết, tính chất và trình tự, thủ tục thực hiện ở mỗi lĩnh vực khác nhau. Điều này cũng làm cho công tác quản lý nhà nước, phối hợp liên ngành trong triển khai thi hành Luật TTTP cũng bộc lộ những bất cập, chưa hợp lý.

Thứ ba, việc bố trí cán bộ, kinh phí và các điều kiện cần thiết cho hoạt động này còn chưa tương xứng. Các Bộ, ngành chưa thật quyết liệt trong việc tổ chức thực hiện, nhất là trong việc bố trí nhân lực và nguồn lực cho công tác TTTP, bao gồm ở cả cấp Trung ương và địa phương; công tác theo dõi, đôn đốc thực hiện hồ sơ UTTP chưa thường xuyên. Sau 6 năm thực hiện Luật TTTP, số lượng đội ngũ cán bộ ở các cơ quan Trung ương hầu như không được bổ sung trong khi hoạt động TTTP ngày càng phức tạp về nội dung, gia tăng về khối lượng với yêu cầu ngày càng cao, cơ sở vật chất kỹ thuật bố trí cho công tác TTTP vẫn chưa có sự phát triển theo kịp với yêu cầu phát triển của hoạt động này. Việc ứng dụng công nghệ thông tin mặc dù đã có tiến bộ nhưng mới ở bước đầu, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước, chưa tạo lập được sự kết nối đồng bộ, kịp thời giữa các Bộ, ngành, Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trưc thuộc Trung ương qua công nghệ thông tin.

Thứ tư, đối với công tác điều ước quốc tế về TTTP, kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, do có quan điểm chưa thống nhất về việc các điều ước quốc tế về TTTP có thuộc phạm vi điều ước quốc tế về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”[5] đã làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động đàm phán, ký, phê chuẩn điều ước quốc tế về TTTP. Điều này đã làm chậm tiến độ đàm phán, ký kết gia nhập các điều ước quốc tế về TTTP.

3. Một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2016 và đề xuất, kiến nghị

a. Nhiệm vụ trọng tâm

Trên cơ sở tình hình và kết quả hoạt động TTTP trong năm 2015 và trước yêu cầu đặt ra đối với công tác này, Chính phủ xác định định hướng chung của công tác TTTP năm 2016 như sau:

1. Về công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật về TTTP

Chính phủ chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng kế hoạch nghiên cứu đề xuất về khả năng xây dựng luật riêng điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của hoạt động TTTP để quy định cụ thể và đầy đủ hoạt động TTTP trong từng lĩnh vực. Trước mắt, cần sửa đổi, bổ sung Luật TTTP đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết các vụ việc dân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cải cách pháp luật, tư pháp.

Chính phủ chỉ đạo và giao các Bộ, ngành hoàn thành việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành, thực hiện phổ biến, quán triệt các quy định mới liên quan đến TTTP của Bộ luật dân sự, BLTTDS, Luật tố tụng hành chính, BLTTHS, Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi, bổ sung), đảm bảo việc triển khai các văn bản pháp luật mới được chính xác, thống nhất và hiệu quả trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, hình sự có yếu tố nước ngoài, phù hợp với cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bộ Tư pháp, TANDTC và Bộ Ngoại giao phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiên túc, thống nhất Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 15, đặc biệt là các quy định về việc thu nộp chi phí UTTP về dân sự, ủy thác tống đạt và thu thập chứng cứ đối với công dân Việt Nam thông qua cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

2. Về công tác điều ước quốc tế

Hoàn thành thủ tục gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ; ban hành Kế hoạch trong nước sẵn sàng cho việc thực thi Công ước khi Việt Nam chính thức gia nhập.

Tiếp tục triển khai tích cực Quyết định số 1440/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế của Việt Nam, trong đó trọng tâm là Bộ Ngoại giao chủ trì với các Bộ, ngành hoàn thành thủ tục trình Chính phủ về việc gia nhập Công ước La Hay về miễn hợp pháp hóa giấy tờ công nước ngoài; Bộ Tư pháp hoàn thành Đề án nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Công ước La Hay năm 1970 về thu thập chứng cứ tạo cơ sở để tiến hành thủ tục gia nhập Công ước.

Tiếp tục thúc đẩy việc đàm phán, ký một số hiệp định TTTP đã khởi động đàm phán và xúc tiến đàm phán các Hiệp định mới, tập trung những nước mà Việt Nam có nhu cầu cao về UTTP; sửa đổi các Hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký trước năm 2000 cho phù hợp với pháp luật và tình hình hợp tác hiện nay.

Các Bộ, ngành tổ chức thực thi nghiêm túc và có hiệu quả các Hiệp định/Thỏa thuận TTTP đang có hiệu lực, các Cơ quan trung ương thực hiện Hiệp định/Thỏa thuận TTTP chủ động xây dựng cơ chế tham vấn thường niên với phía nước ngoài.

3. Về thực hiện UTTP

Các cơ quan thực hiện UTTP theo các quy định mới được ban hành, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thực hiện UTTP, tiếp tục nâng cao tỷ lệ hồ sơ UTTP thực hiện có kết quả, đặc biệt là đối với những nước đã có điều ước quốc tế với Việt Nam. Các cơ quan đầu mối tăng cường hướng dẫn, đôn đốc và tổ chức kiểm tra việc thực hiện UTTP ở cả bốn lĩnh vực tại các cơ quan trực tiếp thực hiện trong nước và ngoài nước để kịp thời khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật mới có liên quan.

4. Về các hoạt động quản lý nhà nước

Bộ Tư pháp tiếp tục triển khai toàn diện các nội dung hoạt động quản lý nhà nước nhằm tăng cường và phát huy tốt vai trò là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước chung về TTTP theo quy định hiện hành; thực hiện nghiêm và thường xuyên công tác chỉ đạo.

Các Bộ, ngành thực hiện tốt công tác báo cáo, thông báo, kiểm điểm, đánh giá định kỳ, phối hợp liên ngành, đặc biệt là phối hợp giữa các cơ quan đầu mối, trong tất cả các khâu của công tác TTTP để trao đổi thông tin nhanh chóng và giải quyết kịp thời các yêu cầu TTTP phức tạp cũng như các vấn đề cần có sự thống nhất của liên ngành, đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động UTTP tiếp tục được triển khai và mở rộng ở cả bốn lĩnh vực TTTP.

b. Các giải pháp chủ yếu

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra, khắc phục những hạn chế, bất cập của hoạt động TTTP, trong năm 2016, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ và đề nghị TANDTC, VKSNDTC tiếp tục phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được đề xuất tại các Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật TTTP, tổng kết 20 thi hành Công ước New York 1958, trong đó chú trọng các giải pháp sau:

1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò của công tác TTTP trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ sau khi Cộng đồng ASEAN được hình thành; gia nhập, ký kết một loạt điều ước quốc tế đa phương trong các lĩnh vực, đặc biệt là việc gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ, tham gia ký Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện xuyên Châu Á-Thái Bình Dương (TPP).

2. Tăng cường tổ chức thực hiện các đạo luật mới về tố tụng, Luật TTTP và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế và thực thi pháp luật, điều ước quốc tế về TTTP nhằm đưa công tác TTTP đi vào chiều sâu, có nội dung thực chất và hiệu quả.

3. Tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong nước, thực hiện định kỳ hoạt động kiểm tra đôn đốc tình hình thực hiện UTTP, CN và THQĐTTNN ở cả trong nước và ngoài nước; đẩy mạnh quan hệ, kết nối chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để kịp thời giải quyết vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các UTTP.

4. Tăng cường công tác ký kết, gia nhập thực hiện hiệu quả điều ước quốc tế về TTTP, CN và THQĐTTNN, đặc biệt ưu tiên các điều ước đa phương và điều ước quốc tế song phương với những nước mà Việt Nam có yêu cầu cao về TTTP.

5. Tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác TTTP, CN và THQĐTTNN; thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ làm công tác TTTP; tăng cường các điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất theo kịp với sự phát triển của nhiệm vụ để phục vụ tốt hơn cho hoạt động TTTP.

c. Kiến nghị

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, chúng tôi xin kiến nghị:

1. Đề nghị Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị Đại biểu Quốc hội trong quá trình thẩm tra, xem xét, thông qua Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính quan tâm hơn đến các nội dung về tố tụng có liên quan tới yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp.

2. Đề nghị Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thống nhất giải thích khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 theo hướng xác định điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp không phải là điều ước quốc tế về quyền con người.

3. Đề nghị các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị Đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội khác quan tâm, tăng cường giám sát việc thi hành các đạo luật mới về tố tụng và thực thi các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp.

4. Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc kiện toàn tổ chức và nhân sự thực hiện giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, giải quyết các yêu cầu công nhận và thi hành quyết định của tòa án, trọng tài nước ngoài tại Việt Nam theo hướng tập trung ở một số tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có năng lực để chuyên môn hoá nhiệm vụ có tính chất đặc thù này./.

 

[1]Luật Tổ chức VKSNDTC đã có một mục riêng quy định về nội dung công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTP hình sự (Chương II Mục 9).

[2]VKSNDTC đã phối hợp với Bộ Tư pháp và Viện Công tố Nhật Bản hoàn thành việc thực hiện yêu cầu TTTPHS trong vụ án xảy ra tại Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam (vụ JTC) do C46 - Bộ Công an thực hiện; VKSNDTC đã chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành hữu quan tổ chức đưa điều tra viên ra nước ngoài làm chứng trong vụ án liên quan đến công dân Việt Nam Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết, đối tượng bị tòa án cấp sơ thẩm của Malaysia tuyên phạt tử hình về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

[3]Theo Thông báo của TANDTC, đến tháng 7/2015 Vụ Hợp tác quốc tế thuộc TANDTC mới chính thức được giao là đơn vị đầu mối tham mưu cho Lãnh đạo TANDTC về chỉ đạo, điều hành công tác TTTP.

[4]Tờ trình số 537/TTr- CP ngày 26/12/2014

[5] Hiện chưa có quy định hoặc hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền phân loại rõ ràng về các loại điều ước quốc tế, đặc biệt là điều ước quốc tế về quyền con người nói chung nên có ý kiến khác nhau về việc phân loại các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp có phải là điều ước quốc tế về quyền con người (hiện nay còn có ý kiến cho rằng hiệp định về TTTP là điều ước quốc tế về quyền con người và việc phê chuẩn thuộc thẩm quyền của Quốc hội).