Nâng cao chất lượng luật sư - Góc nhìn từ giải pháp

06/06/2018
Nghề luật sư là một nghề cao quý, thông qua hoạt động của mình, Luật sư thực hiện chức năng xã hội cao cả đó là góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng, văn minh[1].

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của nghề luật sư. Điều này được thể hiện qua rất nhiều các văn bản như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002[2]; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020[3];Pháp lệnh Tổ chức luật sư  năm 1987, Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 2001 và Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012... Có thể thấy đội ngũ Luật sư Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Hành lang pháp lý về nghề luật sư ngày càng hoàn thiện, hoạt động nghề nghiệp của luật sư ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. 
Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động của nghề luật sư vẫn còn những hạn chế nhất định như: Chất lượng luật sư chưa đồng đều, vẫn còn có những khoảng cách khá xa nhau về trình độ, kỹ năng giữa các luật sư; mối quan hệ giữa luật sư với Đoàn Luật sư, giữa Đoàn Luật sư với các cơ quan quản lý Nhà nước còn có những hạn chế chất lượng hoạt động nghề nghiệp đặc biệt là trong tranh tụng, trong thương mại quốc tế còn nhiều hạn chế; tổ chức hành nghề luật sư nhỏ lẻ, chưa thật sự chuyên sâu trong các lĩnh vực…
Để khắc phục những hạn chế nói trên và để nâng cao được chất lượng luật sư Việt Nam ngang tầm với khu vực và thế giới, trong phạm vi bài viết chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo luật
Trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo luật ngay từ bậc đại học. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi vì không có những cử nhân luật vững vàng về kiến thức xã hội, kiến thức khoa học pháp lý, ngoại ngữ… thì thật khó để Học viện Tư pháp có thể đào tạo được luật sư giỏi, luật sư hội nhập quốc tế. Thực trạng đào tạo hệ cử nhân luật ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề về chất lượng, nhất là các hệ đào tạo tại chức, vừa học vừa làm, chất lượng tuyển sinh đầu vào rất thấp, đội ngũ giảng viên có chỗ, có nơi chưa đảm bảo yêu cầu …Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cử nhân luật chủ yếu là về lý thuyết mà thiếu kỹ năng thực hành, hầu như sinh viên chưa được làm quen với các công việc/nghề nghiệp liên quan đến pháp luật[4]
Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo luật là một giải pháp trọng tâm, là giải pháp “gốc” nhằm nâng cao chất lượng cử nhân luật nói chung và chất lượng luật sư nói riêng. Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có nghiên cứu đồng bộ, thống nhất về yêu cầu của Nhà nước, của xã hội, của nghề nghiệp đối với công tác đào tạo cử nhân luật và đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp.… trong đó có luật sư. Nhằm đảm bảo việc đào tạo cử nhân luật gắn liền với nghề nghiệp, hướng nghiệp; còn đào tạo nghề nghiệp luật sư gắn liền với chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu, kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu…
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng đào tạo luật sư
Trong những năm qua công tác đào tạo luật sư đã có nhiều đóng góp thiết thực đáng ghi nhận. Qua đó đã góp phần đảm bảo được yêu cầu về tiêu chuẩn, về điều kiện để trở thành luật sư và nâng cao chất lượng luật sư Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy công tác đào tạo luật sư vẫn còn những hạn chế nhất định và cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong đào tạo luật sư.
Để nâng cao chất lượng đào tạo luật sư, theo quan điểm của chúng tôi cần có các giải pháp trước mắt và các giải pháp lâu dài.
Về giải pháp trước mắt: Cần đổi mới chương trình đào tạo luật sư thật sự gắn kết với yêu cầu của thực tiễn, trong đó đặc biệt chú trọng đến khâu tuyển chọn giảng viên cơ hữu, cũng như giảng viên thỉnh giảng. Đây là khâu rất quan trọng cần thiết phải nhìn nhận để đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo luật sư. Cần thiết phải có cơ chế thu hút những cán bộ, công chức, viên chức có trình độ cao (ít nhất cũng phải có học vị thạc sỹ trở lên), có nhiều năm công tác trong ngành Tư pháp, trong các học viện, các trường… có liên quan đến pháp luật về làm giảng viên cơ hữu đào tạo luật sư. Đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, cần có chương trình tuyển chọn một cách bài bản để đánh giá được chính xác năng lực giảng dạy cũng như thực tiễn hành nghề luật sư. Đề ra yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn đối với giảng viên; công khai và tổ chức kỳ thi tuyển chọn hàng năm, ai đạt yêu cầu thì thực hiện việc ký kết hợp đồng giảng dạy. Từ đó sẽ tuyển chọn được những giảng viên thỉnh giảng đạt yêu cầu cả về mặt lý luận và thực tiễn, qua đó góp phần nâng cao chất lượng luật sư Việt Nam.
Việc đào tạo luật sư cần đi vào nề nếp, chuyên sâu, chú trọng đến kỹ năng hành nghề luật sư. Để nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, theo chúng tôi cần phải có sự nghiên cứu đổi mới công tác đào tạo. Ví dụ: trong chương trình đào tạo luật sư hiện nay, thời gian dành cho việc tổ chức diễn án khá nhiều. Tuy nhiên, việc diễn án này lại do chính các học viên tự thực hiện (các vai diễn như Thẩm phán, kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, đương sự,…Đều do học viên đóng vai) mà còn thiếu sự dẫn dắt, định hướng tình huống từ phía người đào tạo. Do đó, học viên khi thực hiện diễn án hoàn toàn bị động khi thiếu chuyên môn và thực tiễn về vai diễn của mình và tất yếu không thể nào tiếp cận được sát với thực tế kỹ năng của luật sư tại một phiên tòa. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư có thể xem xét mời những Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thầm nhân dân giỏi, có nhiều kinh nghiệm tham gia diễn án và học viên chỉ đóng vai luật sư tham gia phiên toà, khi đó phiên tòa sẽ diễn ra theo định hướng của Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và học viên – là các luật sư sẽ tham gia theo tình huống đó.
Về giải pháp lâu dài:
Điều 13 Luật Luật sư năm 2012 quy định những người được miễn đào tạo nghề luật sư bao gồm các đối tượng  sau: “Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên;  Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật; Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật;  Đã là thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật”. Tuy nhiên theo chúng tôi cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư theo hướng giảm thiểu những người được miễn đào tạo nghề luật sư. Theo đó những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên thì không được miễn đào tạo luật sư mà điều kiện được miễn phải có ít nhất từ 5 năm trở lên làm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên. Bởi vì, theo quy định hiện hành thì chỉ cần được bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên thì đương nhiên là “đã” làm công tác này và được miễn đào tạo nghề luật sư mặc dù thời gian công tác, kinh nghiệm tố tụng không nhiều.
Bên cạnh đó, chúng tôi ủng hộ đa số quan điểm cho rằng phải phân loại luật sư theo các chuyên ngành chuyên sâu tương ứng với chứng chỉ hành nghề như luật sư tố tụng, luật sư tư vấn pháp luật, luật sư thương mại - quốc tế,… và việc đào tạo luật sư cũng tuân theo các chứng chỉ hành nghề này. Những người được miễn đào tạo thì cấp chứng chỉ hành nghề phù hợp với công việc của họ, ví dụ như đã là thẩm phán thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư tố tụng, còn nếu muốn hành nghề tư vấn pháp luật, thương mại - quốc tế thì phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành nghề phù hợp hoặc đã là giảng viên chính chuyên ngành luật thương mại - quốc tế thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thương mại - quốc tế và muốn tham gia tố tụng thì cũng phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành nghề,…
Đối với việc đào tạo luật sư cũng như vậy, phải đào tạo chuyên sâu theo chứng chỉ hành nghề, được cấp chứng chỉ nào thì hành nghề theo chứng chỉ đó, muốn hoạt động trên tất cả các lĩnh vực bắt buộc phải hội đủ các chứng chỉ hành nghề theo quy định.
Đối với những người đã là luật sư đang hành nghề thì có cơ chế cho họ đăng ký hành nghề theo một chứng chỉ nhất định, còn các chứng chỉ hành nghề lĩnh vực, chuyên ngành khác thì tạo đều kiện cho họ tham gia kỳ thi kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định.
Thứ ba, Bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ
Đây là giải pháp quan trọng và là cầu nối, là sợi dây liên lạc giữa giới luật sư và hệ thống chính trị ở nước ta. Với sự phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội, ngày càng nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Bên cạnh việc cập nhật các văn bản pháp luật, luật sư cũng cần được trang bị kiến thức về đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng thể hiện qua các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng. Hiện nay, việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là một nghĩa vụ bắt buộc của luật sư được quy định trong Luật Luật sư và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/ 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư. Thông tư số 10/2014/TT-BTP, ngày 07/4/2014 quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư (Thông tư số 10/2014/TT-BTP). Tuy nhiên, những quy phạm pháp luật này chưa thực sự đi vào thực tiễn, còn mang nặng tính hình thức. Lý do là, quy định thời gian bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ khá ít (chỉ 02 ngày/năm), trách nhiệm của các tổ chức thực hiện lớp bồi dưỡng còn chưa rõ ràng, đối với việc cập nhật đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng cho đội ngũ luật sư dường như đang bị bỏ ngỏ...
Vì vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư số 10/2014/TT-BTP quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư theo hướng: Luật sư phải có nghĩa vụ tham gia các lớp học tập, quán triệt Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Giao trách nhiệm mở lớp, báo cáo viên cho Sở Tư pháp cấp tỉnh thực hiện. Thời gian mở các lớp định kỳ theo từng quý trong năm( một năm 4 lớp), thời gian tổ chức mỗi lớp học, bồi dưỡng ít nhất là 01 đến 02 ngày, thay cho quy định thời gian tham gia bồi dưỡng tối thiểu là 2 ngày một năm như hiện nay( Điều 8 Thông tư số 10/2014/TT-BTP). Về chất lượng các lớp học bồi dưỡng cũng cần được giám sát, bảo đảm .
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Trong thời gian vừa qua, thực tiễn cho thấy có đã có những trường hợp luật sư xa rời mục tiêu, lý tưởng, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Đảng và Nhà nước, thậm chí cá biệt còn có những trường hợp vi phạm pháp luật ….Vì vậy, cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ Luật sư Việt Nam. Thông qua các cấp chính quyền quản lý luật sư, quản lý Đoàn Luật sư và nhất thiết phải được đưa vào Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong thời kỷ mới, từ đó thể chế hóa về mặt pháp luật chủ trương hoàn thiện pháp luật về luật sư.
Thứ năm, tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Nghề luật sư là nghề độc lập, mang tính chất tự quản rất cao. Một mặt, Nhà nước cần đảm bảo cho tính tự quản nghề nghiệp được phát huy cao độ, mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của luật sư cũng cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả quản lý nhà nước đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp của luật sư ở một số địa phương chưa đảm bảo hiệu quả cao, còn để xảy ra nhiều sai phạm của luật sư cả về vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp[5].
 Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và thể chế hóa bằng pháp luật, theo đó phải phân biệt rõ việc quản lý nhà nước với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản lý những nội dung gì? và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý những nội dung gì? Trách nhiệm kiểm tra, giám sát như thế nào? Quy trình xử lý các sai phạm của luật sư, của Đoàn luật sư ra sao?[6].... Có như vậy, mới bảo đảm hành lang pháp lý vững chắc để luật sư tuân thủ các quy định của pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình, bảo đảm luật sư thượng tôn pháp luật, vì công lý, vì lợi ích tốt nhất của khách hàng và góp phần xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, tăng cường sự sự phối hợp, tham vấn giữa Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương.
Thực tiễn hoạt động của luật sư còn nhiều khó khăn, trở ngại, trong đó có cả các trở ngại khách quan về cơ chế, về quản lý…Để đảm bảo cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư được đảm bảo hiệu quả, chuyên nghiệp và đạt chất lượng cao thì cần thiết phải tăng cường sự phối hợp, trao đổi, tham vấn giữa các cơ quan nhà nước với Đoàn Luật sư. Cần có cơ chế để định kỳ hàng quý Ban Nội chính và Sở Tư pháp chủ trì mời các cơ quan nhà nước có liên quan và Đoàn Luật sư cấp tỉnh để thực hiện việc trao đổi về công tác phối hợp, thực thi pháp luật,… cũng như tham vấn các dự án, chính sách của địa phương. Qua đó, nâng cao được trách nhiệm của các Cơ quan nhà nước; trách nhiệm, vị trí, vai trò của Đoàn Luật sư, góp phần tháo gỡ những  khó khăn, vướng mắc và tạo thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
 

Đồng tác giả: Ths. Đinh Duy Bằng & Ths. Hoàng Thanh Hoa


[1] Điều 3 Luật Luật sư  năm 2012

[2]Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
 [3]Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
 [4]ThS.Nguyễn Văn Bốn, Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị, http:// tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=304, trc: 30/5/2018 [5] Huy Anh, 17 luật sư bị xóa tên do vi phạm đạo đức nghề nghiệp, http://baophapluat.vn/thoi-su/17-luat-su-bi-xoa-ten-do-vi-pham-dao-duc-nghe-nghiep-330774.html, ngày đăng: 21/4/2017, trc: 30/5/2018’.

[6]Nguyễn Văn Bốn, Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị, http:// tcdcpl. moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=304