Quy định về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản, theo BLDS năm 2015 và những vướng mắc

02/04/2018

 
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có nhiều quy định mới về phần lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, những quy định mới này theo hướng tăng mức lãi suất thỏa thuận và lãi suất phạt do chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, điều này sẽ góp phần tạo cơ chế về lãi suất để nhằm thúc đẩy bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tuân thủ và kỷ luật hợp đồng trong giao dịch dân sự; bảo đảm hài hòa với mục đích quy định lãi suất là một trong những công cụ để điều tiết nền kinh tế, đặc biệt đối với thị trường vốn, tiền tệ và các mục đích kinh tế, xã hội khác. Đồng thời, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự, từ đó thúc đẩy các chủ thể này tham gia tích cực hơn vào các quan hệ này. Ngoài ra, việc xác định mức lãi suất cao nhất trong giao dịch vay tài sản mà BLDS năm 2015 cho phép còn có ý nghĩa trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cho vay lãi nặng quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018) cấu thành cơ bản tội phạm này dựa trên quy định về mức lãi suất của BLDS năm 2015, mà theo đó, trong giao dịch dân sự mà người cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, thì hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về nhận thức và áp dụng các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản, dẫn đến tình trạng cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó, các bên thỏa thuận về lãi suất, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng có Tòa án xét xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm, nhưng cũng có Tòa án xét xử chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm hợp đồng do phát sinh số tiền lãi chậm trả, vì cho rằng như vậy “phạt chồng phạt”. Ngoài ra, để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó, khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào mới được gọi là khoản tiền vay ?...Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số quy định của BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đến lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản và
Thứ nhất: Trường hợp vay nào áp dụng lãi suất theo quy định của BLDS năm 2015?
Điều 463 BLDS năm 2015, có quy định về hợp đồng vay tài sản, như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Điều 466 của Bộ luật này cũng quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, như sau:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Về cách tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, Điều 468 BLDS năm 2015, quy định:
 “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Như vậy, mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này là 20%/ năm nên được xác định là 10%/ năm tương ứng với 0.83 %/ tháng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, bên cạnh tiền gốc thì bên vay có trách nhiệm thanh toán cho bên cho vay các khoản lãi bao gồm:
i). Lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay
= (nợ gốc x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời hạn hợp đồng vay.
ii). Lãi đối với phần tiền lãi chậm trả trong thời hạn hợp đồng vay
 = [(nợ gốc x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời hạn vay] x 0.83 x thời gian chậm trả.
iii). Lãi trên nợ gốc quá hạn
= nợ gốc x (150% x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời gian quá hạn.
Ví dụ: A cho B vay 100.000.000 đồng với lãi suất 1%/ tháng, thanh toán tiền lãi hàng tháng và thời hạn của hợp đồng vay là 12 tháng từ 01/01/2017 đến 31/12/2017. Đến hạn B chưa thanh toán cho A cả gốc lẫn lãi. 06 tháng sau là 01/07/2018, B mới thực hiện việc thanh toán. Nghĩa vụ thanh toán của B trong trường hợp này theo quy định của BLDS năm 2015, như sau:
+ Tiền nợ gốc =100.000.000 đồng.
+ Tiền lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng = 100.000.000 x 1% x 12 = 12.000.000 đồng.
+ Tiền lãi đối với khoản lãi trên nợ gốc chậm trả trong thời hạn hợp đồng = 12.000.000 x 0.83% x 6 = 5.976.000 đồng.
+ Tiền lãi nợ gốc quá hạn = 100.000.000 x 150% x 1% x 6= 9.000.000 đồng.
Mức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015 mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như: đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng; mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng. Tuy nhiên với quy định này, vấn đề đặt ra làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay ?.
Mặt khác, theo quy định trên đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015? Trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Mà luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2018). Tuy nhiên, trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017 (sau đây gọi tắt Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017) lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 91 của Luật này quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, như sau:
“1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.”
Từ đây, vấn đề được đặt ra đó là lãi suất vay tại các ngân hàng, TCTD hoặc các công ty tài chính có phải áp dụng theo BLDS năm 2015 không hay áp dụng trường hợp luật khác có liên quan quy định khác?
Tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính (viết tắt Thông tư 43/2016/TT-NHNN), theo đó, công ty tài chính quy định về khung lãi suất cho vay tiêu dùng áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống trong từng thời kỳ, trong đó bao gồm mức lãi suất cho vay cao nhất, mức lãi suất cho vay thấp nhất đối với từng sản phẩm cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 10 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN còn quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng phải được lập thành văn bản, trong đó tối thiểu phải có nội dung như sau:
+ Lãi suất cho vay tiêu dùng theo thỏa thuận và mức lãi suất cho vay tiêu dùng quy đổi theo tỷ lệ %/năm (một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó;
+ Nguyên tắc và các yếu tố xác định lãi suất, thời điểm xác định lãi suất cho vay đối với trường hợp áp dụng lãi suất cho vay có điều chỉnh;
+ Lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn;
+ Lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả;
+ Phương pháp tính lãi tiền vay;
+ Loại phí và mức phí áp dụng đối với khoản vay.
Thứ hai: tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, thì lãi mà bên vay phải trả như sau:
Lãi trên nợ gốc: Tính theo lãi suất theo thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả.
+Lãi chậm trả trong hạn hợp đồng theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015.
Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả: Tính bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả nếu hai bên không có thỏa thuận khác.
Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (viết tắt Thông tư 39/2016/TT-NHNN) Thông tư này thay thế Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Mà theo đó, các quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) với khách hàng tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN được điều chỉnh cho phù hợp với quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, BLDS năm 2015, các quy định hiện hành khác của pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay.
Trên cơ sở các quy định tại Điều 466, Điều 468 BLDS năm 2015 và quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng  năm 2010 và kế thừa quy định về lãi suất cho vay tại Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, quy định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định về lãi suất cho vay như sau:
Một là, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp áp dụng mức lãi suất tối đa đối với cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với 05 lĩnh vực ưu tiên doThống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế được điều chỉnh giảm 0,5%/năm. Các lĩnh vực được điều chỉnh giảm lãi suất bao gồm:
+Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
+Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương mại.
+Phục vụ kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ.
+Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật công nghệ cao.
Như vậy, quy định về trần lãi suất chỉ áp dụng đối với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN.
Hai là, bổ sung quy định về nghĩa vụ trả lãi cho tiền lãi chậm trả, cụ thể: Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do TCTD và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Ba là, trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên phần dư nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất áp dụng do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.
Nợ gốc quá hạn gồm: Nợ gốc đến hạn không trả được và nợ gốc chưa đến hạn bị chuyển sang đến hạn theo thỏa thuận do vi phạm hợp đồng và khách hàng không trả được. Khi cho vay, ngân hàng, TCTD được quyền áp dụng lãi suất trong hạn (chỉ áp dụng trong thời hạn vay) và lãi suất quá hạn (khi đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hạn quy định) và không cho phép áp dụng thêm một loại lãi nào khác trùng với thời gian đã áp dụng 1 trong 2 loại lãi suất nói trên.
Thứ ba: vấn đề lãi suất khi người có nghĩa vụ chậm thi hành bản án, quyết định của Tòa án khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”; mà khoản 2 Điều 468 thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 đó là lãi suất theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, đối với việc xác định lãi suất chậm thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp tranh chấp không phải là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì mức lãi suất chậm trả sẽ áp dụng theo mức lãi suất nào? Khi bản án, quyết định xác định trách nhiệm của một bên đương sự có nghĩa vụ trả một khoản tiền cho bên kia, nếu áp dụng theo khoản 1 Điều 468 của BBLDS năm 2015 để tính lãi suất cho các tranh chấp hợp đồng khác không phải là hợp đồng vay thì chưa phù hợp, vì khoản 1 Điều 468 tính lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trong khi các tranh chấp hợp đồng khác không phải là khoản tiền vay.
Để tháo gỡ vấn đề về lãi suất nêu trên, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng mức lãi suất khi chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tranh chấp hợp đồng dân sự (không phải là hợp đồng vay tài sản), để khi vận dụng quy định về lãi suất trong BLDS năm 2015.
Thứ tư: phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản, bồi thường hợp đồng
Trên thực tế, nhiều hợp đồng có các quy định mức phạt không đúng với quy định nêu trên hoặc quy định chưa rõ để xác định. Chẳng hạn, có hợp đồng quy định “quá thời hạn thanh toán của các đợt 2, 3 mà bên B chưa thanh toán hết thì phải chịu lãi suất quá hạn 0,5% /ngày/số tiền chậm trả”; hoặc là “phải chịu khoản phạt bằng 0,03% mỗi ngày chậm thanh toán”; hoặc là “quá các thời hạn thanh toán bên B phải chịu phạt với lãi suất chậm trả bằng 150% của lãi vay VNĐ cho số tiền và số ngày trả chậm cùng mọi chi phí phát sinh do chậm thanh toán gây ra. Thời gian kéo dài tối đa không quá 15 ngày tiếp theo, quá thời hạn này mà bên B chưa thanh toán đủ tiền hàng cho bên A thì bên A có quyền ….”
Ngoài ra, với các hợp đồng vay tiền (hợp đồng mẫu) do các CTTC phát hành hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp nội dung phạt vi phạm hợp đồng, như sau:
  1. Ngày đến hạn thanh toán: là ngày Quý khách có nghĩa vụ thanh toán Số tiền trả góp hàng tháng cho CTTC. Ngày đến hạn thanh toán hàng tháng được quy định cụ thể tại Hợp đồng tín dụng. Nếu ngày đến hạn thanh toán hàng tháng rơi vào ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì Quý khách cần thực hiện thanh toán trước ngày nghỉ đó.Quý khách vui lòng thanh toán trước 03 ngày so với ngày đến hạn thanh toán để đảm bảo tiền chuyển vào tài khoản đúng hạn.
2. Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Trong trường hợp Quý khách vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong Hợp đồng, Quý khách sẽ bị phạt vi phạm hợp đồng với mức phạt được quy định sau đây:Trường hợp vay mua hàng điện tử, điện máy gia dụng; vay mua xe máy; vay tiền mặt, mức phạt phát sinh theo từng giai đoạn khi Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng.
+Mức phạt đầu tiên nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ tư sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 150.000 đồng;  250.000 đồng; 250.000 đồng.
+Mức phạt phát sinh thêm lần 2 sau mức phạt đầu tiên nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ ba mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng;  400.000 đồng;  450.000 đồng. 
+Mức phạt phát sinh thêm lần 3 sau mức phạt đầu tiên và lần 2 nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ sáu mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng;  400.000 đồng;  450.000 đồng.
 Quý khách tham khảo ví dụ dưới đây để hiểu rõ hơn về mức phạt vi phạm hợp đồng trình bày trong bảng trên: Ví dụ, một Khách hàng có hợp đồng vay mua điện thoại, có ngày đến hạn thanh toán vào ngày 1 hàng tháng. Ngày 1/3 rơi vào ngày chủ nhật, thì vào thứ tư (25/2), Khách hàng nên đến các điểm thanh toán để thực hiện thanh toán cho CTTC nhằm tránh tiền chuyển vào tài khoản của CTTC bị trễ, phát sinh phạt trễ hạn. Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho CTTC vào ngày 4/3, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 4 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 150.000 đồng. Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho Home Credit vào ngày 1/4, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 30 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 400.000 đồng  (= 150.000 đồng + 250.000 đồng). Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho CTTC vào ngày 1/5, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 60 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 650.000 đồng (= 150.000 đồng + 250.000 đồng + 250.000 đồng). 
Theo tác giả, thỏa thuận về phạt vi phạm của hợp đồng cho vay của CTTC như trên về bản chất là phạt vi phạm về trả tiền gốc và lãi. Như vậy là trái với quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực này. Cụ thể, BLDS năm 2015, Thông tư 39/2016/TT-NHNN có quy định về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại như sau:
          (i) TCTD và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp TCTD hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp vi phạm về trả gốc, lãi. Như vậy, theo quy định này, thỏa thuận phạt vi phạm chỉ được áp dụng đối với hành vi vi phạm các nghĩa vụ của thỏa thuận cho vay (không phải là nghĩa vụ trả gốc, lãi);
          (ii) TCTD và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp TCTD và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
Phạt vi phạm là một hình thức chế tài áp dụng đối với một trong các bên vi phạm nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp, ngân hàng, TCTD hiểu nhầm về chế tài phạt vi phạm hợp đồng với lỗi của bên vay chậm thanh toán bằng hình thức phạt lãi là không chính xác, vì như vậy là “lãi chồng lãi”. Chẳng hạn, tại  khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng có nội dung về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán, giữa Ngân hàng TMCP A với Công ty TNHH B, như sau:“lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán”. Nội dung thỏa thuận này về bản chất là phạt số tiền lãi chậm trả, điều này không đúng pháp luật.
Ngân hàng, TCTD, CTTC và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp TCTD và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm. Từ các quy định của pháp luật, nghĩa vụ của bên vay tài sản có thể bao gồm: Nếu vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như trên đã đề cập. Các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.
Thứ năm: Về hình thức của hợp đồng
Khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015, quy định: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Quy định này đề cập trường hợp văn bản phải tuân theo một hình thức nhất định thì mới có hiệu lực đối với các bên. Chẳng hạn pháp luật đất đai đặt ra yêu cầu phải công chứng, chứng thực, đăng ký đối với một số hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.
Trong khi đó, quy định của một số luật chuyên ngành đặt ra yêu cầu hợp đồng phải có một số nội dung bắt buộc. Ví dụ, Điều 141 Luật Xây dựng năm 2014, quy định về nội dung của hợp đồng xây dựng, mà theo đó, hợp đồng xây dựng phải có: Căn cứ pháp lý áp dụng; Ngôn ngữ áp dụng; Nội dung và khối lượng công việc; Chất lượng, yêu cầu kỹ thuật của công việc, nghiệm thu và bàn giao; Thời gian và tiến độ thực hiện hợp đồng; Giá hợp đồng, tạm ứng, đồng tiền sử dụng trong thanh toán và thanh toán hợp đồng xây dựng; Bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng hợp đồng; Điều chỉnh hợp đồng xây dựng; Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng xây dựng; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, thưởng và phạt vi phạm hợp đồng; Tạm ngừng và chấm dứt hợp đồng xây dựng; Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng; Rủi ro và bất khả kháng; Quyết toán và thanh lý hợp đồng xây dựng; Các nội dung khác.
Điều 18 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, quy định về đối tượng được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, theo đó, hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà hay công trình xây dựng phải có 12 nội dung gồm giá, phương thức và thời hạn thanh toán, thời hạn giao, nhận bất động sản...
Khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015, quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
Vấn đề đặt ra, rất khó để xác định thế nào là “hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”. Cách tính tổng số nghĩa vụ trong giao dịch sau đó xem số lượng nghĩa vụ đã thực hiện là bao nhiêu sẽ không khả thi nếu như trong số các nghĩa vụ đó có những nghĩa vụ không phân chia được theo phần hoặc danh sách các nghĩa vụ mà hợp đồng nêu chỉ mang tính chất liệt kê và là danh sách mở.
Có thể thấy, xuất phát điểm của việc đưa ra quy định này là để hạn chế tình trạng các bên lợi dụng quy định vi phạm về hình thức của giao dịch nhằm yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Điển hình là đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản bằng giấy viết tay trước đây khi bên mua đã thanh toán, bên bán đã nhận tiền và giao nhà, đất nhưng vì vướng quy định về hình thức mà bên mua chưa đăng ký sang tên mình được sẽ hứng chịu rủi ro nếu chẳng may bên bán hoặc những người liên quan không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo tác giả, với cách quy định như trên có thể thấy nhiều hệ lụy không tích cực phát sinh từ quy định này, đó là:
Việc quy định công chứng, chứng thực là điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực đã được thực tế chứng minh là rất quan trọng. Một trong những lý do cốt lõi ảnh hưởng đế tính hợp pháp của giao dịch là xem xét năng lực hành vi dân sự và quyền sở hữu đích thực của các chủ thể tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 thì yếu tố này đã bị bỏ qua. Việc công chứng hợp đồng trở thành điều kiện có cũng được mà không có cũng được, miễn sao các bên mua bán và giao tiền, giao tài sản. Rõ ràng, có những vấn đề chuyên môn mà thẩm phán không thể làm thay công chứng viên, bởi công chứng viên mới là người chứng kiến trực tiếp tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng và xác định giao dịch đó có đủ điều kiện để xác lập hay không.
Chẳng hạn, ông A và bà B chuyển nhượng đất và nhà cho ông C và bà D. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà B bị tâm thần, tuy nhiên, hợp đồng vẫn có chữ ký của bà. Sau đó hai bên tiến hành giao tiền và tài sản bình thường và được hợp thức hóa thông qua giải quyết của Tòa án. Đương nhiên, Tòa án không thể xác định được tại thời điểm giao dịch diễn ra thì bà B có minh mẫn hay không. Một thời gian sau, bà B khỏi bệnh, nhận thấy giá nhà đất tăng vọt, bà B kiện ra tòa với lý do tại thời điểm ký giao dịch bà không minh mẫn, đồng thời xuất trình căn cứ và hồ sơ bệnh án.
Trên đây là những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS năm 2015, xoay quanh về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng, hình thức hợp đồng . Rất mong sự quan tâm trao đổi của Quí bạn đọc.
 
Phạm Thị Hồng Đào