Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong BLHS và vấn đề xác định tội danh

29/03/2018

1. Quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Theo quy định tại Điều 323 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau:
 “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.....”
So với BLHS năm 1999 quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất: Tại khoản 1 tăng mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng (BLHS năm 1999 từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng).
Thứ hai: Tại khoản 2 mức hình phạt tù áp dụng từ 03 năm đến 07 năm (BLHS năm 1999 từ 02 năm đến 07 năm). Đồng thời quy định cụ thể giá trị tài sản tại “mục c. Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; d. Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.”
Thứ ba: Tại khoản 3 mức hình phạt tù áp dụng 07 năm đến 10 năm (BLHS năm 1999 từ 05 năm đến 10 năm). Giá trị tài sản quy định như sau “a. Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; b. Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.”
Thứ tư: Tại khoản 4 mức hình phạt tù từ 10 năm đến 15 năm (BLHS năm 1999 là từ 07 năm đến 15 năm), giá trị tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.
Thứ năm: Tại khoản 5 quy định mức phạt tiền 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (BLHS năm 1999 từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).
Điều luật quy định hai hành vi:
Hành vi thứ nhất là hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là trường hợp biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cất giữ, bảo quản. Việc cất giữ, bảo quản có thể ở bất cứ địa điểm nào; có trường hợp chỉ cất giữ trong túi áo, túi quần hoặc trong người. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có lại là đối tượng phạm tội của tội phạm khác thì người có hành vi chứa chấp tài sản đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà bộ luật hình sự quy định đối với hành vi tang trữ các loại tài sản đó.
Hành vi thứ hai là hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là trường hợp biết rõ tài sản có được là tài sản do người phạm tội nhưng vẫn nhận hoặc mua để dùng, nhận để bán lại hoặc giới thiệu để người khác mua, chuyển tài sản đó cho người khác theo yêu cầu của người phạm tội. Cũng như đối với trường hợp chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, nếu người phạm tội có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tài sản đó là đối tượng của tội phạm khác thì người có hành vi tiêu thụ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của Bộ luật hình sự.
Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tức là người phạm tội biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu vì một lý do nào đó mà họ không biết thì hành vi tiêu thụ tài sản đó không bị coi là hành vi phạm tội.
2. Xác định tội danh
Tuy nhiên trong thực tiễn, việc xác định tội phạm này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau. Ví dụ: Ngày 13/2/2018 Nguyễn Văn A (sinh năm 2004) đã lẻn vào cửa hàng bán điện thoại di động MH, huyện N, tỉnh H trộm 01 chiếc điện thoại trị giá 2,2 triệu đồng và đến nhà Hoàng Nghĩa V bán lại với giá 1,5 triệu đồng, V biết chiếc điện thoại này là của A trộm cắp được nhưng vẫn đồng ý mua với giá 1,5 triệu đồng. Sau đó A và V bị công an bắt, chiếc điện thoại được Hội đồng định giá tài sản định giá 2,1 triệu đồng. Sau khi vụ án xảy ra có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến hành vi phạm tội của Hoàng Nghĩa V.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hoàng Nghĩa V phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, trong trường hợp nêu trên V đã tiêu thụ tài sản do A phạm tội nên việc xử lý V là phù hợp, tránh bỏ lọt tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hoàng Nghĩa V không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” vì hành vi của Nguyễn Văn A không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.
Qua thực tiễn nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thể thấy:
Thứ nhất: Hành vi tiêu thụ tài sản được hiểu là những hành vi có tính chất dịch chuyển tài sản từ người có tài sản do phạm tội sang người khác như hành vi mua, tạo điều kiện để bán hoặc để trao đổi tài sản đó. Bên cạnh đó, hành vi phạm tội tiêu thụ tài sản có đặc điểm trên chỉ cấu thành Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khi không có sự hứa hẹn trước. Nếu có sự hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ, thu mua tài sản trộm cắp thì hành vi của người tiêu thụ là hành vi của một đồng phạm với tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Thứ hai: Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có diễn ra sau khi đã có hành vi phạm tội khác đã hoàn thành, hai hành vi này hoàn toàn tách biệt nhau. Điều luật quy định hành vi "tiêu thụ tài sản mà biết rõ là do người khác phạm tội mà có " Người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu vì một lý do nào đó mà họ không biết thì hành vi tiêu thụ tài sản đó không bị coi là hành vi phạm tội. Tài sản mà người phạm tội tiêu thụ có xuất phát điểm từ hành vi phạm tội khác mà có (tức là hành vi phạm tội khác đủ điều kiện để truy cứu TNHS) còn nếu chỉ là hành vi vi phạm pháp luật chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tài sản đó không được xem là tài sản mà biết rõ là do người khác phạm tội mà có.
Từ những sự phân tích nêu trên có thể thấy việc Nguyễn Văn A trộm cắp tài sản nhưng do A chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự nên không thể khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử A về tội “Trộm cắp tài sản” hay nói cách khác là A không phạm tội (không phải chịu trách nhiệm hình sự) mà chỉ bị xử lý hành chính. Do vậy chiếc điện thoại mà A trộm được không phải là tài sản do phạm tội mà có (tức là tài sản không phải do A phạm tội mà có) mà chiếc điện thoại nêu trên chỉ là tài sản do người khác vi phạm pháp luật mà có tức là do A vi phạm pháp luật mà có, vì vậy không thể truy cứu TNHS đối với Hoàng Nghĩa V về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Như vậy, trong thực để xử lý TNHS về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” cần xác định tài sản tiêu thụ của hành vi phạm tội trước đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm trong BLHS./.
TRẦN VĂN HÙNG