Thực trạng khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách xử lý nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ

22/02/2017
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nợ xấu đang được đánh giá là một trong các yếu tố chính có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.Tuy nhiên đến nay, số liệu về nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam vẫn chưa rõ ràng. Số liệu chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố cho thấy tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng hiện nay dưới 3%[1]. Tuy nhiên, theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào tháng 7 năm 2016, tỷ lệ nợ xấu khoảng 12,5%[2]. Để thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp về xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống các TCTD, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt: (i) Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015 tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 và (ii) Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 tại Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013.Đây là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp, đòi hỏi phải có đột phá về tư duy, thể chế và tổ chức thực thi trên cơ sở các nguyên tắc của kinh tế thị trường nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thể chế, củng cố lòng tin thị trường.
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm và phát triển thị trường mua bán nợ trong thời gian qua còn chưa thực chất và gặp nhiều khó khăn. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), các TCTD và các tổ chức liên quan mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, quá trình này gắn liền với quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD, gồm: minh bạch hóa; tăng cường năng lực quản trị rủi ro, đáp ứng tiêu chuẩn Basel II, các chuẩn mực kiểm toán, kế toán; xử lý sở hữu chéo; tăng cường năng lực giám sát tài chính, tái cấu trúc từng TCTD… Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích thực trạng khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm và phát triển thị trường mua bán nợ, giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện, khách quan về vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Về cơ bản, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay đã quy định khá đầy đủ để điều chỉnh một cách toàn diện từ việc thành lập, tổ chức và hoạt động, chấm dứt hoạt động đối với các loại hình doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng cũng như việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, thương mại, trong đó có mua bán nợ xấu, như Luật đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật phá sản năm 2014... Đặc biệt, với việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và việc Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng, trình Chính phủ hai Nghị định về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm triển khai thi hành Bộ luật dân sự năm 2015, các vướng mắc, bất cập trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự liên quan đến mua bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm nhìn chung đã được giải quyết.
1. Về khung khổ pháp lý và cơ chế chính sách đối với các chủ thể trong thị trường vốn
1.1. Bảo đảm về địa vị pháp lý của các chủ thể liên quan
Pháp luật hiện hành đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền đầu tư kinh doanh nói chung, quyền đầu tư kinh doanh trong thị trường mua bán nợ nói riêng; về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp trong đó có TCTD, doanh nghiệp có vốn sở hữu nhà nước, mua bán nợ, mua bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp... Nhìn chung các quy định pháp luật đã góp phần quan trọng vào thiết lập hành lang pháp lý minh bạch, khả thi đối với thị trường mua bán nợ nói chung, hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng.
Luật đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định nhà đầu tư, doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong các ngành, nghề mà luật không cấm; nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư, doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp; nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư, doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp; nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư, doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành nghề kinh tế...; doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức tổ chức kinh doanh, điều chỉnh quy mô và ngành nghề kinh doanh; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và tìm kiếm hợp đồng...
Về tổ chức, hoạt động của thị trường mua bán nợ và xử lý nợ xấu, pháp luật Việt Nam bước đầu đã có cơ chế pháp lý về vấn đề này, chủ yếu tập trung vào tổ chức, hoạt động mua bán nợ xấu của các TCTD, nợ tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, Luật TCTD năm 2010, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cho phép NHNN với tư cách là một chủ thể đặc biệt thực hiện hoạt động mua lại bắt buộc TCTD yếu kém trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, bảo đảm tính an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD. Ngoài ra, hai Luật này cũng có quy định về việc cho phép các TCTD đáp ứng đủ điều kiện cũng được phép mua lại TCTD yếu kém.Triển khai thi hành các quy định nêu trên của luật, Thủ tướng Chính phủ và NHNN kịp thời ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật và các quyết định thuộc thẩm quyền để điều chỉnh các quan hệ có liên quan.
Đối với chủ thể có quyền thực hiện hoạt động mua bán nợ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN, Bộ Tài chính đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp mua bán nợ đặc thù, bao gồm: VAMC (có chức năng mua bán nợ xấu của các TCTD bằng trái phiếu đặc biệt và mua bán nợ theo cơ chế thị trường), AMC (là các doanh nghiệp do các NHTM thành lập, thực hiện quản lý, xử lý các khoản nợ, tái cơ cấu các khoản nợ của NHTM, tham gia vào thị trường mua bán nợ nhưng không được mua bán các khoản nợ của chính ngân hàng thương mại), DATC (do Thủ tướng Chính phủ thành lập thực hiện mua bán, tái cơ cấu các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước). 
Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD còn một số bất cập so với yêu cầu quản lý của nhà nước và hoạt động của các TCTD, nhất là những quyền hạn của NHNN trong xử lý các TCTD yếu kém, quy định về tổ chức và hoạt động của các TCTD, thiếu các quy định về cơ chế đặc thù để xử lý các TCTD yếu kém gắn với việc xử lý nợ xấu. Một số quy định tại Luật các TCTD về tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 55), trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ (Điều 33), trường hợp hạn chế cấp tín dụng (Điều 128)… còn chưa chặt chẽ hoặc thực thi chưa tốt nên đã dẫn đến tình trạng sở hữu chéo, nhờ người khác đứng tên trong việc sở hữu hộ cổ phiếu hoặc phần vốn góp tại TCTD hoặc sử dụng vốn của TCTD vào mục đích kinh doanh tại các doanh nghiệp bên ngoài… gây rủi ro rất lớn cho TCTD. Ngoài ra, các cơ chế chính sách hỗ trợ tái cơ cấu, xử lý nợ xấu chưa huy động được nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào cơ cấu lại các TCTD, thiếu cơ chế chính sách khuyến khích hỗ trợ TCTD và VAMC xử lý nợ xấu, thiếu các chính sách hỗ trợ tài chính như miễn giảm thuế đối với các TCTD tham gia vào sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD yếu kém… 
1.2. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh, xác lập thực hiện giao dịch
Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017), Luật đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật NHNN Việt Nam năm 2010, Luật các TCTD năm 2010, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này về cơ bản đã tạo được cơ sở pháp lý tương đối hoàn thiện, bảo đảm sự thuận lợi để khách hàng vay trong thị trường vốn được thực hiện quyền tự do kinh doanh, xác lập thực hiện giao dịch, trong đó có giao dịch về vốn, đồng thời cũng đã minh bạch về hạn chế quyền kinh doanh, quyền và nghĩa vụ dân sự khác, trong đó có quyền xác lập thực hiện vay vốn tại TCTD và chịu trách nhiệm với việc sử dụng vốn vay vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ chỉ giới hạn một số đối tượng cụ thể như: Ngân hàng thương mại, VAMC, DATC, AMC, các tổ chức mua bán chứng khoán và trái phiếu Chính phủ nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định thì được tham gia kinh doanh dịch vụ mua bán nợ như: tư vấn, môi giới, sàn giao dịch mà chưa quy định cụ thể về nội dung, hoạt động mua bán nợ, cơ chế mua bán nợ, quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát đối với giao dịch mua bán nợ cũng như trình tự, thủ tục liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ… Bên cạnh đó, mua bán nợ là giao dịch trong đó các quyền và nghĩa vụ đối với một khoản nợ được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác và cũng có quan điểm cho rằng, “nợ” chỉ là một loại hàng hóa để mua bán thông thường, không có ảnh hưởng nào tới lợi ích công cộng được liệt kê tại khoản 1 Điều 7 Luật đầu tư năm 2014. Do đó, về lâu dài cần xem xét, đánh giá sự cần thiết của quy định này theo hướng nên coi hoạt động mua bán nợ là một giao dịch dân sự thông thường không phải là một ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, do đó đề nghị xem xét bỏ “kinh doanh dịch vụ mua bán nợ” ra khỏi danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật đầu tư năm 2014.
Ngoài ra, Nghị định số 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ không quy định rõ ràng việc nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm tổ chức tín dụng nước ngoài) có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài hoặc mua lại toàn bộ một công ty kinh doanh dịch vụ mua bán nợ tại Việt Nam; không quy định rõ việc chuyển giao tài sản bảo đảm (TSBĐ) sang cho công ty mua bán nợ vì công ty mua bán nợ không phải là TCTD nên chưa có cơ chế rõ ràng trong nhận thế chấp đối với bất động sản theo quy định của Luật đất đai hay đăng ký thế chấp đối với bất động sản; không đề cập đến trường hợp phải xử lý TSBĐ và không rõ là bên mua nợ có được quyền trực tiếp sở hữu bất động sản (bao gồm cả quyền sử dụng đất) hay phải bán cho tổ chức, cá nhân được quyền mua và sở hữu bất động sản theo quy định của pháp luật.
1.3. Về chế độ pháp lý đối với tài sản, sở hữu, giao dịch
Về cơ bản, hệ thống pháp luật ngày càng được xây dựng hoàn thiện, ngày càng nhất quán, minh bạch, ổn định hơn tạo môi trường pháp lý ổn định, thông thoáng, hạn chế rủi ro pháp lý về tài sản là hàng hóa trong giao lưu dân sự, thương mại, được vận động không ngừng dưới nhiều dạng thức, quy mô khác nhau, được tối đa hóa giá trị không chỉ bởi chủ sở hữu mà còn bởi cả người không phải chủ sở hữu để trên cùng một tài sản phát sinh nhiều lợi ích hơn cho chủ thể, cho nền kinh tế, trong đó, có quyền, lợi ích của các TCTD, sự ổn định, minh bạch của thị trường vốn.
Pháp luật về tài sản, sở hữu và giao dịch của nước ta, gồm: BLDS năm 2015, Luật đất đai năm 2013, Luật nhà ở năm 2014, Luật kinh doanh bất động sản năm 2014, các luật khác có liên quan và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, về cơ bản đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi minh bạch, thông thoáng, ít rủi ro pháp lý trong giao lưu dân sự nói chung, hoạt động tín dụng, ngân hàng nói riêng, trong đó có lĩnh vực mua bán nợ:
a) Về tài sản và sở hữu
Quy định của pháp luật về tài sản và sở hữu, nhất là trong BLDS năm 2015, cũng đã có cách tiếp cận mới cơ bản, toàn diện về tài sản, sở hữu trong quan hệ thị trường, cụ thể là:
Thứ nhất,về tài sản, pháp luật ghi nhận tài sản trong giao lưu dân sự bao gồm bất động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Trường hợp theo quy định của pháp luật, bất động sản hoặc động sản phải đăng ký thì việc đăng ký quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản (ví dụ: đăng ký chuyển quyền sử dụng đất, biến động quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai...) phải được công khai. Riêng đối với quyền sử dụng đất, BLDS năm 2015 đã ghi nhận quyền sử dụng đất là quyền tài sản, qua đó, “hợp thức hóa” quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với quyền sử dụng đất mà họ được nhà nước giao, được xác lập thông qua giao dịch hoặc được xác lập theo các căn cứ khác của pháp luật. Người sử dụng đất có quyền tự quyết trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất của mình và chỉ bị hạn chế trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và các quy định về giới hạn quyền sở hữu trong BLDS.
Trong quy định về TSBĐ, pháp luật cũng đã có quy định vừa mang tính bao quát, vừa bảo đảm tính minh bạch, tạo thuận lợi cho các chủ thể trong quan hệ tín dụng lựa chọn TSBĐ và biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho phù hợp, hạn chế rủi ro pháp lý, thông thoáng trong quan hệ về thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Trong đó, BLDS năm 2015 ghi nhận tài sản được quy định trong BLDS đều có thể là TSBĐ theo nguyên tắc chung là TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; TSBĐ có thể là bất động sản và động sản hiện có hoặc hình thành trong tương lai, TSBĐ có thể được mô tả chung nhưng xác định được; giá trị TSBĐ có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm; TSBĐ có thể được dùng để bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai mà không nhất thiết phải lập mới hợp đồng bảo đảm theo từng nghĩa vụ phát sinh; người thứ ba có quyền sử dụng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính bên vay nhưng cũng có thể để bảo đảm thực hiện chính nghĩa vụ bảo lãnh của mình. Pháp luật cũng đã quy định tách biệt cụ thể về trường hợp TSBĐ là quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền, TSBĐ là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất mà chủ sở hữu quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có thể cùng một chủ sở hữu hoặc thuộc chủ sở hữu khác nhau.
Thứ hai, về quyền đối với tài sản, bên cạnh quyền sở hữu, để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng một cách hiệu quả các tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và để tạo cơ chế pháp lý để các chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác, bảo đảm khai thác được nhiều nhất lợi ích trên cùng một tài sản, bảo đảm trật tự, ổn định các quan hệ có liên quan, BLDS năm 2015 đã sửa đổi quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề và bổ sung quyền hưởng dụng, quyền bề mặt. Trong đó, tách bạch quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản với quyền của người có quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt khác đối với tài sản.Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Pháp luật về đất đai và bất động sản khác cũng đã ghi nhận cụ thể các quyền của người có bất động sản, cũng như điều kiện của việc chuyển quyền đối với bất động sản và những biến động khác có liên quan đến bất động sản. Cách tiếp cận này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, hoàn thiện chế độ pháp lý thống nhất, ổn định, bảo đảm cho tài sản là hàng hóa trong giao lưu dân sự (bao gồm cả các quan hệ cho vay và đi vay trong tín dụng ngân hàng) được lưu thông không ngừng ở nhiều dạng thức, quy mô khác nhau, được tối đa hóa giá trị không chỉ bởi chủ sở hữu mà còn bởi cả người không phải là chủ sở hữu để trên cùng một tài sản ngày càng phát sinh nhiều lợi ích hơn cho chính chủ thể, cho nền kinh tế, cho toàn bộ xã hội; góp phần làm giảm thiểu chi phí trong giao lưu dân sự, pháp luật Việt Nam có tính hội nhập hơn. Cùng với những cải cách về tài sản, việc pháp luật quy định cụ thể về quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt khác sẽ giúp cho doanh nghiệp, người dân bằng tài sản của mình có thể huy động vốn được thuận lợi hơn, tạo khả năng thanh toán nợ lành mạnh hơn, các TCTD có nhiều lựa chọn hơn về TSBĐ và khuyến khích các TCTD nhận TSBĐ để bảo toàn, phát triển nguồn vốn vay của mình.
Triển khai thi hành các quy định mới của BLDS năm 2015, Luật đất đai và luật khác có liên quan đến TSBĐ, Chính phủ đang thực hiện rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan  để bảo đảm tính thống nhất, cụ thể và khả thi trong quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung, TSBĐ nói riêng.
Thứ ba, về mối liên hệ giữa các thời điểm giao dịch có hiệu lực, thời điểm chuyển quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và thời điểm phát sinh hiệu lực công khai với người thứ ba, BLDS năm 2015 đã quy định tách biệt giữa các thời điểm này.  Trong đó, đối với bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm giao dịch bảo đảm được giao kết trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác; thời điểm xác lập quyền của bên nhận bảo đảm đối với TSBĐ được xác định theo thời điểm luật định, trường hợp luật không quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên, trường hợp luật không quy định và các bên không thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền đối với TSBĐ là thời điểm TSBĐ được chuyển giao (thời điểm bên nhận bảo đảm hoặc người đại diện hợp pháp của họ nắm giữ, chi phối TSBĐ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp); thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba được tính từ thời điểm biện pháp bảo đảm được đăng ký hoặc thời điểm bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ TSBĐ. Trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi TSBĐ và được quyền ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận TSBĐ.
Về quyền ưu tiên thanh toán trong xử lý TSBĐ, BLDS năm 2015 cũng đã quy định một cách minh bạch về thứ tự ưu tiên thanh toán, theo đó, khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định theo nguyên tắc: Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng; trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước; trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm. Thứ tự ưu tiên thanh toán này có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau.Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền.
Về xử lý TSBĐ, BLDS năm 2015 cũng đã có quy định cụ thể về các căn cứ xử lý TSBĐ, phương thức xử lý TSBĐ (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo phương thức bán đấu giá, bên nhận bảo đảm tự bán TSBĐ, bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên nhận bảo đảm hoặc phương thức khác). Khi có căn cứ xử lý TSBĐ, bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu người đang giữ TSBĐ giao TSBĐ cho mình để xử lý. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Quy định như trên đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính minh bạch trong xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm, tạo cơ chế pháp lý mạnh hơn trong xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Để bảo đảm tính thống nhất, cụ thể và khả thi trong quy định về vấn đề này, Chính phủ cũng đang thực hiện công tác rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
 b) Về giao dịch
Pháp luật về giao dịch, đặc biệt BLDS năm 2015 đã có nhiều quy định mang tính bao quát hơn, bảo đảm tốt hơn về tự do ý chí, sự an toàn pháp lý và ổn định trong giao dịch dân sự, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình, trong đó:
Thứ nhất, về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình
Pháp luật đã quy định cụ thể, minh bạch, nhất quán về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự vô hiệu (đối với lĩnh vực tín dụng ngân hàng, người thứ ba ngay tình có thể là TCTD khi họ là bên nhận bảo đảm bằng tài sản) theo nguyên tắc: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó tài sản này được chuyển giao (bao gồm cả chuyển giao pháp lý trong biện pháp thế chấp) bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình và người thứ ba này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch (có thể là giao dịch bảo đảm) thì giao dịch này không vô hiệu; hoặc trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng người thứ ba (có thể là TCTD khi họ là bên nhận bảo đảm bằng tài sản) lại xác lập giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản. Do bản án, quyết định bị hủy, sửa đổi thì giao dịch dân sự của người thứ ba cũng không bị vô hiệu. Trong trường hợp này, chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình (bao gồm cả TSBĐ mà bên TCTD đang nắm giữ, chi phối) mà chỉ có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc xác lập giao dịch với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, về việc đại diện trong giao dịch
BLDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi quan trọng về vấn đề này, trong đó, đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật, người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền của cá nhân, pháp nhân khác trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc do người đại diện xác lập thực hiện vượt quá phạm vi được đại diện thì về nguyên tắc không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện trừ các trường hợp: (i) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; (ii) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; (iii) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình, không có người có thẩm quyền đại diện.
 Thứ ba, về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ
BLDS năm 2015 (cũng như BLDS năm 2005) đều ghi nhận bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác thế quyền theo thỏa thuận, bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người khác thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý trừ các trường hợp mà theo thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc quyền yêu cầu, nghĩa vụ không được chuyển giao (ví dụ: chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc chuyển giao quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín,...). BLDS cũng quy định cụ thể cơ chế pháp lý thực hiện việc chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ; quyền và nghĩa vụ của bên thế quyền, thế nghĩa vụ (bên thế quyền trở thành người có quyền, người có quyền yêu cầu được chuyển giao chấm dứt quyền của mình; bên thế nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ, người có nghĩa vụ được chuyển giao chấm dứt nghĩa vụ); mối liên hệ giữa chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm... Trong đó, trường hợp chuyển quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó; trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, vẫn còn có những quy định quá chặt chẽ đối với đầu tư nước ngoài liên quan đến quyền sử dụng đất, kinh doanh và sở hữu bất động sản.Đối tượng nhận thế chấp quyền sử dụng đất mới chỉ giới hạn ở các TCTD. Còn thiếu vắng cơ chế pháp lý đồng bộ để kịp thời triển khai những thuận lợi nêu trên, trong đó còn thiếu vắng nhiều quy định cơ bản về bảo đảm công khai trong đăng ký tài sản, nhất là công khai biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; tách bạch giữa thời điểm giao dịch có hiệu lực, thời điểm chuyển quyền đối với tài sản và thời điểm công khai đối với xã hội...
1.4. Về cơ chế pháp lý tăng cường quản trị doanh nghiệp và tái thiết doanh nghiệp
Chính sách và pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư trong thời gian qua, trong đó có doanh nghiệp nhà nước, đã tiếp tục được hoàn thiện. Luật đầu tư năm 2014, Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 đã quy định cụ thể về địa vị pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của thành viên tham gia quản trị, quản lý doanh nghiệp của Hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát cũng như người điều hành doanh nghiệp đối với từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, liên quan đến trách nhiệm quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà nhà nước nắm quyền sở hữu 100% vốn hoặc từ 50% vốn trở lên hoặc có sở hữu một phần vốn nhà nước đầu tư sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp cũng được quy định rõ tại Luật quản lý sử sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật đầu tư công, Luật quản lý nợ công.
Các quy định pháp luật này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đẩy nhanh việc cổ phần hóa doanh nghiệp, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp, các quy định về chuyển đổi doanh nghiệp cũng được quy định cụ thể. Tuy nhiên, liên quan đến tăng cường quản lý doanh nghiệp và tái thiết doanh nghiệp hiện nay còn một số hạn chế liên quan đến việc chậm cổ phần hóa đặc biệt là việc cổ phần hóa gắn với việc niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán, giới hạn của nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường còn ở mức độ thấp. Mặc dù đã có Luật phá sản năm 2014 nhưng chưa thể tiến hành phá sản các TCTD yếu kém không có khả năng phục hồi. Trách nhiệm của chủ sở hữu, cổ đông, đặc biệt là cổ đông lớn đối với những tổn thất, vi phạm trong TCTD chưa được quy định một cách rõ ràng.
Có thể khẳng định tình hình và kết quả thực hiện cải cách hiện nay vẫn chưa được kỳ vọng, việc “cổ phần hóa” vẫn gặp nhiều thách thức về mặt chất (tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước vẫn cao và việc bán cổ phần cho nhà đầu tư tư nhân còn chậm) và mặt lượng (số lượng doanh nghiệp được cổ phần hóa).  Việc bán cổ phần nhà nước nắm giữ chậm trễ chủ yếu được cho là do các nguyên nhân sau:
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả có sức hấp dẫn đầu tư cao với các nhà đầu tư, tỷ lệ bán cổ phần quy định trong “Phương án cổ phần hóa” chưa đủ cao (trường hợp bán đa số cổ phần đã phát hành rất ít), việc này đặc biệt làm giảm mong muốn đầu tư của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh kém thuận lợi hơn, bản thân việc bán cổ phần của doanh nghiệp cho các nhà đầu tư ngay sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần là không thuyết phục nên đa số cổ phần không bán được.
2. Khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách về các TCTD trong thị trường vốn
2.1. Về tổ chức hoạt động của TCTD và hoạt động quản lý nhà nước liên quan
Pháp luật về tín dụng ngân hàng, chứng khoán đã quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các TCTD, đặc biệt là đã quy định cụ thể về hoạt động kinh doanh của các NHTM, ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và tổ chức tài chính vi mô. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định về hoạt động của TCTD nói chung và NHTM nói riêng khi tham gia vào hoạt động đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm. Ngoài ra, pháp luật hiện hành về chứng khoán, bảo hiểm đã quy định về hoạt động giao dịch mua bán, đầu tư các loại chứng khoán, trong đó có cơ chế giao dịch đối với chứng khoán của các TCTD (đã niêm yết và chưa niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán).
Pháp luật về tín dụng ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm đã quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm hoạt động cho các TCTD và quy định chặt chẽ về cơ chế kiểm tra, giám sát cũng như các chế tài xử lý vi phạm. Nhiều quy định pháp luật về lãi suất, tỷ lệ an toàn, trách nhiệm của quản trị, điều hành TCTD, trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc thẩm định hồ sơ tín dụng còn nhiều bất cập dẫn đến các rủi ro pháp lý. Bên cạnh đấy, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp tín dụng, ngân hàng giữa các cơ quan tố tụng còn nhiều vấn đề chưa nhất quán, thống nhất, ví dụ như cơ chế ủy quyền, kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, việc tiến hành bán đấu giá các khoản nợ, xác định giá trị, định giá khoản nợ cho đến việc thực hiện các trình tự thủ tục tố tụng tại tòa án còn nhiều bất cập, khó khăn đối với TCTD và đối với các công ty tham gia mua bán nợ.
2.2. Về tái cơ cấu hệ thống các TCTD
Về cơ bản, khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách về tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã được xác lập. Các cơ chế này đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD, bảo đảm thu hút phân bổ nguồn vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.
Pháp luật và chính sách liên quan đến bảo vệ người gửi tiền trong đó có việc bảo hiểm tiền gửi tham gia vào việc chi trả bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền cũng như hoạt động của bảo hiểm tiền gửi trong việc tái cơ cấu hệ thống các TCTD, đặc biệt là các TCTD bị kiểm soát đặc biệt, mất khả năng thanh toán hoặc phá sản cần tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện như: mức chi trả bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền thấp (50 triệu). Pháp luật hiện hành không quy định về cách tính phí bảo hiểm tiền gửi và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi dựa trên nguyên tắc rủi ro. Hoạt động chủ yếu hiện nay của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không có quy định về chức năng bảo hiểm tiền gửi trong việc tham gia vào tái cơ cấu các TCTD như: hỗ trợ vốn, tiếp nhận tài sản, nợ của TCTD yếu kém  còn chậm triển khai thi hành. Bên cạnh đó:
- Chưa bảo đảm tính thực chất, chưa phát huy được sự tham gia của các cổ đông thiểu số, đặc biệt là các tổ chức tài chính nước ngoài có góp vốn vào trong NHTM Việt Nam, chưa giải quyết hiệu quả các vấn đề về sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp, tỷ lệ nắm giữ vốn của Nhà nước tại các ngân hàng TMCP nhà nước còn lớn, tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, nhà đầu tư Việt Nam còn thấp dẫn tới năng lực tài chính, năng lực quản trị của các NHTM lớn, Ngân hàng TMCP Nhà nước còn nhiều bất cập chưa theo kịp yêu cầu phát triển thị trường vốn và xử lý nợ xấu phát sinh.
- Việc cổ phần hóa, tiếp tục thoái vốn nhà nước tại các NHTM Nhà nước diễn ra còn khá chậm so với yêu cầu, giới hạn tỷ lệ cổ phần đối với nhà đầu tư chiến lược thấp nên chưa thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm tham gia đầu tư. Việc cổ phần hóa các NHTM Nhà nước và các loại hình TCTD khác diễn ra chậm và chưa gắn với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán dẫn đến việc huy động vốn của thị trường để thúc đẩy sự phát triển thị trường vốn ổn định, minh bạch cũng chưa đạt được kết quả như mong đợi.
- Chưa có cơ chế pháp lý thống nhất, minh bạch trong việc áp dụng biện pháp phá sản đối với TCTD để bảo đảm hài hòa giữa tôn trọng quy luật thị trường, sự ổn định của hệ thống tín dụng, quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và vay tiền tại các TCTD. Pháp luật về ngân sách, về quản lý sử dụng vốn nhà nước chưa có quy định cụ thể về việc không sử dụng trực tiếp ngân sách nhà nước trong việc xử lý nợ xấu, hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống các TCTD.Thực tế chính sách liên quan đến vấn đề này nêu rõ không sử dụng ngân sách trong xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống các TCTD, không áp dụng biện pháp phá sản trong giai đoạn hiện nay đối với hệ thống các TCTD.
- Chưa có khung khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa nợ.
- Còn thiếu cơ chế pháp lý điều chỉnh các hoạt động cổ đông chủ yếu của NHTM, nhất là đối với quyền kiểm soát, giám sát đối với cổ đông có quyền phủ quyết dẫn tới chưa kiểm soát được kịp thời cổ đông lớn không đủ điều kiện tham gia góp vốn vào ngân hàng có thể gây tổn hại đến tính lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng và các TCTD. Ngoài ra, cũng chưa có chính sách Nhà nước có quyền yêu cầu cổ đông có quyền phủ quyết nắm giữ trên 50% cổ phần của ngân hàng hỗ trợ ngân hàng đó trong việc xử lý nợ xấu cũng như bảo đảm sự lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng.
2.3. Về thực hiện quyền chủ nợ đối với các khoản vay và TSBĐ của khách hàng
Theo quy định của pháp luật thì TCTD thực hiện các quyền của chủ nợ đối với nghĩa vụ thực hiện trả tiền vay và quyền xử lý TSBĐ, quyền khác trong thu hồi nợ khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, hiện nay một số quy định liên quan đến vấn đề này còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như chưa có sự đồng bộ thống nhất về cơ chế phí, lãi, lãi suất, các cơ chế khuyến mại, chăm sóc khách hàng; chưa có cơ chế pháp lý thuận lợi để các TCTD nhanh chóng xử lý TSBĐ, hạn chế rủi ro pháp lý và những thiệt hại về lợi ích kinh tế trong xử lý TSBĐ khi bên bảo đảm hoặc người giữ TSBĐ không thiện chí hợp tác trong việc giao TSBĐ cho TCTD xử lý.
3. Khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách về các thiết chế tham gia xử lý nợ xấu
Pháp luật hiện hành bao gồm các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức thành lập và hoạt động của VAMC, Nghị định số 69/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty mua bán nợ Việt Nam… về cơ bản đã tạo dựng được khung khổ pháp lý cho việc mua bán nợ của các doanh nghiệp có chức năng mua bán nợ, trong đó có nợ xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của các công ty này còn nhiều khó khăn, do đó, cần tăng cường chức năng cho DATC theo hướng coi DATC như một cơ quan tái thiết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và xây dựng Nghị định mới cho DATC cho mục tiêu này, quy định rõ chức năng và quyền hạn cần thiết (bao gồm chức năng điều phối/thống nhất ý kiến các chủ nợ, chức năng tái cơ cấu cải tổ hoạt động kinh doanh). Bên cạnh đó, cần tạo cơ chế pháp lý để các công ty mua bán nợ vừa hoạt động độc lập nhưng vẫn có sự phối hợp, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và cạnh tranh lẫn nhau. Nghiên cứu cơ chế, chính sách để phát triển vốn kinh doanh của VAMC cũng như các thiết chế độc lập về định giá nợ, đấu giá, kiểm toán, phá sản, quản tài viên, thi hành án... để hỗ trợ một cách có hiệu quả cho VAMC và DATC trong quá trình mua và xử lý nợ xấu theo giá thị trường.
- Vị trí vai trò của các thiết chế xử lý nợ xấu trong xử lý TSBĐ, theo báo cáo của VAMC thì chưa cho phép áp dụng cơ chế riêng, đặc biệt, có tính chất mạnh hơn theo thông lệ chung như được trực tiếp thu giữ TSBĐ dưới sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (BLDS 2015 ngoài nguyên tắc chung bên giữ tài sảm bảo đảm phải giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý tài sản, trường hợp ko giao thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu tòa án buộc bên giữ tài sản phải giao tài sản, nhưng cũng có ngoại lệ là trừ trường hợp luật liên quan có quy định (Điều 301).
- Cơ chế về trách nhiệm của TCTD trong minh bạch thông tin về nợ, nợ xấu với khách hàng vay, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, các thiết chế có chức năng, thẩm quyền về xử lý nợ xấu. Hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC vẫn mua nợ theo giá ghi sổ đang thực hiện (mua bằng trái phiếu đặc biệt dẫn tới hoặc tiếp tục tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước và không phản ánh đúng giá trị thực chất của khoản nợ theo thị trường. Vốn điều lệ của VAMC chưa thực sự bảo đảm năng lực tài chính để VAMC mua nợ theo giá thị trường. Đồng thời còn thiếu các cơ chế hỗ trợ để giúp VAMC mua nợ theo giá thị trường.
4. Cơ chế tài phán trong xử lý nợ xấu
4.1. Pháp luật về tố tụng
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có nhiều cải cách thủ tục tố tụng dân sự theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời nói chung, giải quyết vụ việc liên quan đến mua bán nợ, xử lý nợ xấu nói riêng. Trong đó:
a) Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: Bộ luật tố tụng dân sự quy định trường hợp thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới thì chủ sở hữu mới kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; trường hợp tổ chức được chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về dân sự thì tổ chức đó kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
b) Về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo thủ tục rút gọn: Bộ luật tố tụng dân sự quy định việc xét xử vụ án có tính chất đơn giản theo thủ tục rút gọn với trình tự và thời gian giải quyết ngắn hơn so với thủ tục giải quyết vụ việc thông thường nhằm đơn giản hóa thủ tục tố tụng để giải quyết nhanh chóng vụ án, tiết kiệm thời gian, chi phí giải quyết vụ án nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. Thủ tục rút gọn được áp dụng khi có căn cứ vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một thẩm phán thực hiện.
c) Về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án để khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài, Bộ luật tố tụng dân sự đã bổ sung quy định về việc tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết thông qua hòa giải ngoài tòa án. Việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án được thực hiện khi các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền và nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải, trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu tòa án công nhận; nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của Luật, không trái với đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước hoặc người thứ ba. Việc xem  xét công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án do một thẩm phán giải quyết. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Kết quả hòa giải thành ngoài tòa án được tòa án ra quyết định công nhận sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự. Để thúc đẩy tái thiết doanh nghiệp, cần xây dựng quy trình thống nhất ý kiến giữa các chủ nợ không thông qua cơ chế tòa án (xây dựng luật mới hay hướng dẫn của NHNN) và sửa đổi cơ chế pháp lý liên quan đến phá sản theo hướng hoàn thiện hơn nữa các quy định về tái cơ cấu doanh nghiệp (Sửa đổi Luật phá sản vào thời điểm thích hợp và xây dựng nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện chi tiết) nhằm phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp nợ. Xây dựng cơ chế phán quyết của tòa án đối với trường hợp khách nợ không giao lại tài sản đã thế chấp là bất động sản.
Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa xây dựng được một quy trình thống nhất về xử lý nợ tự nguyện không thông qua cơ chế tố tụng tại tòa án; tòa án tuyên bố hủy bỏ nhiều phán quyết trọng tài hoặc làm vô hiệu hóa hiệu lực các phán quyết trọng tài… Điều này cũng cản trở quá trình xử lý nợ xấu.
4.2. Pháp luật về thi hành án dân sự
Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính đạt nhiều kết quả quan trọng. Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành 03 Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật này, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho việc triển khai thực hiện thi hành án dân sự và thi hành án hành chính. Đặc biệt, thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc thi hành án, Bộ Tư pháp đã tích cực tham mưu cho Chính phủ tổng kết 3 năm thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, báo cáo Quốc hội thông qua Nghị quyết hết sức quan trọng, cho phép thực hiện chính thức chế định này trong phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì công tác thi hành án dân sự trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn, cụ thể như việc khách hàng vay là bên giữ TSBĐ lợi dụng quyền kháng nghị làm cản trở việc thi hành các bản án quyết định của tòa án, kéo dài thời gian thi hành hoặc thủ tục làm cho việc xử lý nợ xấu không kịp thời, một số trường hợp có hành vi cố tình che giấu, tẩu tán tài sản.
4.3. Pháp luật về hành chính, hình sự
Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính là những văn bản pháp lý quan trọng, bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc xử lý hình sự và vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động tín dụng, ngân hàng. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành một số quy định trong Bộ luật hình sự còn một số bất cập, chẳng hạn như Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cho vay trong hoạt động của TCTD quy định chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm quy định cho vay gây hậu quả nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, điều này gây lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý. Hoặc áp dụng tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn vì khi cấp tín dụng thì người có thẩm quyền phê duyệt trên cơ sở hồ sơ tín dụng để cấp tín dụng cho khách hàng nhưng khi khách hàng không hoàn trả được vốn vay do rủi ro hoặc do những nguyên nhân mà khách hàng gây ra thì người phê duyệt, cấp tín dụng lại có thể bị truy cứu tội danh này. Do vậy, hiện nay, Bộ luật hình sự đang được Quốc hội sửa đổi, dự kiến được Quốc hội thông qua vào thời gian tới.
          C. KẾT LUẬN
Xử lý nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ là vấn đề lớn, phức tạp; thị trường mua bán nợ là một thị trường mới của Việt Nam cần được thiết lập theo đúng các nguyên tắc của kinh tế thị trường nhằm phục vụ nhu cầu nội tại của nền kinh tế Việt Nam và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, cần có giải pháp tổng thể để hình thành và hoàn thiện thị trường mua bán nợ theo quy luật của thị trường với hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, thông thoáng, tạo điều kiện cho các chủ thể chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ của mình thông qua giao dịch, theo giá thị trường, cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước bảo đảm khung khổ pháp lý để hạn chế nguy cơ phát sinh rủi ro pháp lý nói chung, nợ xấu nói riêng trong thị trường mua bán nợ, nhất là điều kiện pháp lý để các TCTD chuyển giao quyền đòi nợ của mình cho chủ thể khác. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải bố trí nguồn lực thích hợp để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu trong nền kinh tế; thực hiện thí điểm cho phá sản, giải thể TCTD đã lâm vào tình trạng phá sản; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến nợ xấu.
An Nhiên
 
[1] Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/1/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015 xác định mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu về mức dưới 3% so với tổng dư nợ.
[2] IMF, Vietnam- Staff Report for the 2016 Article IV Consultation, IMF Country Report No. 16/240, 07/2016, mục 10 trang 7; mục 31 trang 15.