Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - Kiến nghị

30/03/2016
Để xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) bằng biện pháp dân sự, một trong những biện pháp mà Tòa án áp dụng là buộc bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu quyền của đối tượng SHTT. Căn cứ và cách tính mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT được thực hiện theo Điều 205 Luật SHTT và mục 2 khoản 1 Phần B Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 3/4/2008 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch - Bộ Khoa học và Công nghệ - Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT tại Tòa án nhân dân. Cụ thể, trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về vật chất cho mình, thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại theo một trong các căn cứ sau:
a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất.
b) Giá trị chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện.
c) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a) và điểm b) nêu trên thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá 500.000.000 đồng.
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ 5.000.0000  đồng đến 50.000.000 đồng tùy thuộc vào mức độ thiệt hại.
Ngoài khoản bồi thường thiệt hại như trên chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Khi thực hiện việc tính toán thiệt hại này, cần lưu ý mấy việc sau:
Một là, tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền nêu ở điểm a) trên bao gồm thiệt hại về doanh thu, hàng tồn kho, giảm sút lợi nhuận và các thiệt hại vật chất khác mà chủ đối tượng SHTTchứng minh được. Trong trường hợp khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại thì nguyên đơn có thể cộng thêm vào đó khoản lợi nhuận bất chính mà bị đơn thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền.
Khi xác định khoản lợi nhuận này, cần phải xem xét các khoản chi phí mà bị đơn đã bỏ ra để có thể khấu trừ khoản tiền này trong tổng doanh thu của bị đơn hoặc xác định một phần lợi nhuận của bị đơn là doanh thu từ các hoạt động khác không liên quan đến hành vi xâm phạm. Tổng doanh thu của bị đơn được tính trên cơ sở toàn bộ các hóa đơn, chứng từ bán sản phẩm hoặc sử dụng tác phẩm vi phạm quyền của nguyên đơn.
Hai là, giá chuyển giao quyền sử dụng quyền SHTT nêu ở điểm b) trên được xác định theo một trong các cách sau:
i) Là khoản tiền phải trả nếu người có quyền và người xâm phạm quyền tự do thỏa thuận, sẵn lòng ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ đó (phí bản quyền, phí li xăng hợp lý). Hành vi xâm phạm ở đây được coi là hành vi sử dụng đối tượng SHTT.
ii) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT giả định được xác định trên theo phương pháp xác định số tiền mà bên có quyền (nguyên đơn) và bên được chuyển giao (bị đơn) có thể đã thỏa thuận vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, nếu các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về khoản tiền đó.
iii) Dựa trên giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT được áp dụng trong lĩnh vực tương ứng được nêu trong các thông lệ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT trước đó (như các vụ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT trong lĩnh vực tương ứng trước đó đã được thanh toán hoặc bảo đảm trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, mức phí được nhiều người chấp nhận là hợp lý, được áp dụng thống nhất ở Việt Nam…).
Đối với mức bồi thường thiệt hại nêu tại điểm c) phần trên, Tòa án chỉ áp dụng trong trường hợp không thể định được mức bồi thường về vật chất của nguyên đơn theo các quy định đã nêu trên do bên nguyên chứng minh không thể có điều kiện tính toán hoặc không có đủ thị trường cho hàng hóa hợp pháp để có cơ sở xác định mức thiệt hại do giảm doanh thu bán hàng trước và sau khi xảy ra xâm phạm quyền. Tuy nhiên, nếu bị đơn chứng minh được rằng nguyên đơn không trung thực trong việc chứng minh thiệt hại của họ vì nếu yêu cầu bồi thường theo điểm a) và điểm b) nêu trên thì sẽ thấp hơn mức bồi thường theo điểm c) và nếu bị đơn chứng minh được mức thiệt hại thực tế của nguyên đơn thì Tòa sẽ không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn mà có thể chấp nhận yêu cầu của bị đơn để quyết định mức bồi thường thiệt hại. Mức bồi thường trong trường hợp này tối thiểu không dưới  5.000.000  đồng và tối đa không quá 500 triệu đồng, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm quyền SHTT liên quan của từng vụ việc, cụ thể như sau:
- Hoàn cảnh, động cơ xâm phạm (cố ý, vô ý, bị khống chế, xâm phạm lần đầu, tái phạm).
- Cách thực hiện hành vi xâm phạm (riêng lẻ, có tổ chức, mua chuộc, lừa dối, cưỡng ép người khác thực hiện).
- Phạm vi lãnh thổ, thời gian, quy mô thực hiện hành vi xâm phạm.
- Ảnh hưởng, hậu quả của hành vi xâm phạm (trong nước, quốc tế đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng của chủ thể quyền, hậu quả về vật chất).
  Trong trường hợp này, nếu trong vụ vi phạm có nhiều đối tượng bị xâm phạm thì mức bồi thường chung cho tất cả các đối tượng đó không quá 500.000.000  đồng. Tòa án quyết định bồi thường thiệt hại về tinh thần nếu nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền SHTT đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình. Tùy từng trường hợp cụ thể, tùy mức độ tổn thất về tinh thần như tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và các tổn thất khác về tinh thần do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra cho chủ thể quyền mà Tòa án quyết định trong giới hạn từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Từ thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại liên quan đến quyền SHTT, có thể thấy vẫn còn có những quy định chưa thật sự rõ ràng, cụ thể, thậm chí rất khó áp dụng trong thực tiễn, chưa thật sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, …Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến những vấn đề sau:
Thứ nhất: Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì việc xác định hình thức lỗi cũng chỉ có ý nghĩ trong một số trường hợp nhất định.Trong một số trường hợp, lỗi vô ý là một trong những điều kiện cần để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, còn mọi trường hợp gây thiệt hại do lỗi cố ý thì luôn phải chịu trách nhiệm bối thường toàn bộ.
Theo pháp luật về SHTT, việc phân loại lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thật sự có nhiều ý nghĩa và không ảnh hưởng đến bất cứ yếu tố nào trong toàn bộ cơ chế bồi thường thiệt hại. Một hành vi xâm hại dù là do lỗi cố ý hay vô ý hay không có lỗi đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực tế xảy ra. Điều này có lẽ xuất phát từ quan điểm pháp lý của những nhà làm luật ở nước ta chủ yếu là khắc phục các quan hệ dân sự bị phá vỡ chứ không nhằm mục đích trừng phạt. Tuy nhiên từ kinh nghiệm của các nước và thực trạng vi phạm quyền SHTT thời gian qua, có thể thấy, việc phân hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo mức độ lỗi cũng như tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm là điều cần thiết phải tính đến, một mặt nhằm nâng cao ý thức “thượng tôn pháp luật” của mọi người dân. Mặt khác, đảm bảo tốt hơn sự công bằng và hiệu quả việc áp dụng và thực thi pháp luật.
Ngoài ra, ở góc độ loại trừ trách nhiệm, pháp luật cũng cần quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà có cơ sở để cho thấy, người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về SHTT họ không có điều kiện để biết hoặc không thể biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật về SHTT, đó là những người buôn bán lẻ ở vùng sâu vùng xa, do không đủ kiến thức và hiểu biết để phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả nhất là trong điều kiện hành giả, hàng nhái được làm ra như hàng thật, hết sức tinh vi, khó nhận biết bằng mắt thường.
Hiện nay, theo quy định của Luật SHTT, mới chỉ quy định các hành vi xâm phạm quyền SHTT với hành vi trực tiếp, mà chưa quy định hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHTT và gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền là hành vi vi phạm pháp luật, trong khi đó, thực tế có nhiều hành vi gián tiếp vi phạm quyền SHTT , như hành vi xúi giục người khác xâm phạm quyền SHTT;  trợ giúp cho người khác xâm phạm nhãn hiệu; bán hàng hóa cho người mua mà có lý do để biết rằng người mua sẽ sử dụng hàng hóa đó vào việc trực tiếp xâm phạm nhãn hiệu. Tham khảo pháp luật về SHTT của một số nước như Mỹ, Nhật, Anh, ngoài việc quy định khá rõ hành vi trái pháp luật trực tiếp hay hành vi gián tiếp xâm phạm đến quyên SHTT, thì còn định chi tiết và cụ thể việc xử lý tương xứng với hành vi trái pháp luật trực tiếp hay hành vi gián tiếp xâm phạm quyền SHTT, cụ thể:
Theo Luật Sáng chế của Mỹ, những hành vi sau đây được coi là gián tiếp xâm hại đến quyền SHTT: i) Xúi giục vi phạm; ii) Gián tiếp tham gia vào hành vi vi phạm (hành vi chào bán, bán, nhập khẩu các phương tiện, công cụ, thiết bị được sử dụng chủ yếu để tạo ra, sử dụng chủ yếu trong sáng chế được bảo hộ); iii) Nhập khẩu vào Mỹ, bán, chào bán hoặc sử dụng tại Mỹ những sản phẩm được làm ra bởi một quy định được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế của Mỹ; iv) Hành vi sản xuất hoặc cung ứng những bộ phận của sáng chế được bảo hộ để lắp ráp ở nước ngoài.
Luật Lanham của Mỹ cũng có quy định: “Một người có thể chịu trách nhiệm liên đới/thay thế cho hành vi vi phạm nhãn hiệu của người khác nếu anh ta trợ giúp cho việc vi phạm”. Một người cũng phải chịu trách nhiệm “nếu bán hàng hóa cho người khác khi biết hoặc có lý do để biết người mua sẽ sử dụng hàng hóa vào việc trực tiếp vi phạm nhãn hiệu của người khác”.
Bộ luật SHTT của Pháp cũng có quy định tại Điều 163-4 về những hành vi bị coi là vi phạm gián tiếp, bao gồm: “Việc giao hay cung cấp cho người không có quyền sử dụng sáng chế những phương tiện liên quan yếu tố cơ bản, chủ yếu để thực hiện sáng chế được bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu, khi người đó biết hoặc trong bối cảnh hiển nhiên phải biết rằng những phương tiện này có đủ khả năng và nhằm vào việc sử dụng sáng chế được bảo hộ”.
Điều 101 Luật Sáng chế của Nhận Bản, cũng quy định những hành vi bị coi là vi phạm gián tiếp (Kansetsu - shinga), bao gồm: Hành vi sản xuất, sử dụng, bán, cho thuê, hoặc nhập khẩu hoặc chào bán, chào cho thuê như là hoạt động kinh doanh một vật, cái mà chỉ được sử dụng sản xuất ra sáng chế hoặc quy trình được bảo hộ.
Có thể thấy, những hành vi quy định về hành vi trái pháp luật gián tiếp xâm hại đến quyền SHTT, không những tạo cơ sở pháp lý bảo vệ tốt hơn các quyền SHTT, mà còn góp phần giải quyết về mặt lý luận mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra, cũng như cơ sở xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, khi mà trong đó vừa có cả chủ thể thực hiện hành vi trực tiếp xâm phạm, vừa có chủ thể thực hiện hành vi gián tiếp vi phạm.
Thứ hai: Trách nhiệm của bên đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại không đúng hoặc lạm dụng các thủ tục thực thi quyền. Điều 205 Luật SHTTdường như chỉ quy định việc bồi thường thiệt hại (phí luật sư) áp dụng cho nguyên đơn chủ thể quyền SHTT, như vậy với trường hợp bị đơn thắng kiện nhưng bị thiệt hại do hành vi khởi kiện của nguyên đơn thì liệu có được hưởng quyền đòi bồi thường đối với các thiệt hại thực tế này không? Về nguyên tắc, bên thắng kiện dù là nguyên đơn hay bị đơn đều có thể được xem xét bồi thường thiệt hại do bên kia gây ra cho mình, đặc biệt là phí luật sư.
Như vậy, Luật SHTT chưa có ghi nhận một cách rõ ràng, cụ thể và thống nhất về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị đơn trong trường hợp thắng kiện đối với các thiệt hại về vật chất và uy tín cũng như phí luật sư thích hợp. Đây có lẽ là sơ suất của nhà làm luật khi quá chú tâm làm sao bảo hộ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền mà bỏ qua quyền lợi của bị đơn trong những trường hợp không có hành vi xâm hại nhưng lại bị khiếu kiện liên quan đến quyền SHTT.
Do vậy, pháp luật cần có quy định rõ theo hướng “trong trường hợp một bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền SHTT không đúng và/hoặc đã lạm dụng các thủ tục thực thi bảo vệ quyền SHTT mà làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải trả cho bên bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái sự bồi thường tương xứng với thiệt hại phải gánh chịu, những thiệt hại bao gồm các chi phí liên quan, chi phí đại diện và phí luật sư ở mức hợp lý.” Quy định này sẽ bảo đảm sự công bằng, khách quan và bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ tố tụng, cũng như đáp ứng yêu cầu của các nguyên tắc quốc tế, cụ thể:
Mục F Điều 12 Chương 2 Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, yêu cầu các bên tham gia Hiệp định phải bảo đảm để “buộc một bên tham gia vụ kiện, mà theo yêu cầu của bên đó các biện pháp thực thi đã được áp dụng và bên đó đã lạm dụng những thủ tục thực thi, phải bồi thường thỏa đáng cho bất kỳ bên nào đã bị cưỡng chế hoặc bị ngăn cản một cách sai trái, những thiệt hại mà bên đó phải chịu do sự lạm dụng trên gây ra và phải trả các chi phí của bên bị thiệt hại trong đó có thể có chi phí hợp lý thuê luật sư.”
Điều 48 Hiệp định TRIPs cũng có quy định như nguyên tắc về sự công bằng, bình đẳng giữa các đương sự trong vụ kiện, đồng thời, tránh sự lạm dụng và thiếu trách nhiệm từ phía chủ sở hữu quyền, theo đó “Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra các yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài và lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản bồi thường tương xứng với thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra và các chi phí, trong đó có thể bao gồm chi phí đại diện thích hợp.”
Thứ ba: Về việc xác định thiệt hại căn cứ vào phí chuyển giao li xăng
Theo Điều 205 Luật SHTT,về căn cứ xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra, trường hợp nguyên đơn chứng minh được thiệt hại vật chất đã gây ra cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường “giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT với giả định rằng bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện.”. Trong trường hợp xác định thiệt hại theo căn cứ này, câu hỏi được đặt ra liệu các thiệt hại thực tế khác, như: Chi phí cần thiết để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại hay tổn thất về cơ hội kinh đoanh có được xác định để bồi thường bên cạnh phí chuyển giao li xăng hợp lý không? Nếu theo nội dung quy định tại Điều 205 Luật SHTT thì đương nhiên các thiệt hại này không được xác định để bồi thường trong trường hợp thiệt hại được tính trên cơ sở phí li xăng. Điều này dường như không hợp lý và không bảo đảm quyền lợi của người bị xâm hại theo đúng nguyên tắc bồi thường toàn bộ.
Nghiên cứu pháp luật của một số nước về nguyên tắc và căn cứ xác định thiệt hại. Trong lĩnh vực SHTT cũng cho thấy, thông thường thiệt hại sẽ được dựa trên: hoặc lợi nhuận bị mất của chủ sở hữu quyền hoặc lợi nhuận bất hợp pháp thu được của người vi phạm hoặc phí li xăng hợp lý. Bên cạnh đó, người thắng kiện còn được bồi thường khoản chi phí thực tế như: chi phí tố tụng, chi phí đăng cải chính, phí luật sư (nếu có),…Điều này có nghĩa là phí chuyển giao li xăng thông thường được áp dụng để xác định thiệt hại chỉ để thay thế cho những lợi nhuận, thu nhập bị mất của nguyên đơn trong trường hợp những thiệt hại này rất khó để xác định, cũng như lợi nhuận thu được của bị đơn, chứ nó không thể thay thế toàn bộ các thiệt hại thực tế của nguyên đơn, đồng thời, cũng không thể loại trừ trách nhiệm bồi thường của người xâm phạm đối với các thiệt hại thực tế phát sinh đối với người bị xâm phạm, như chi phí tố tụng, chi phí luật sư, chi phí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại và tổn thất về tài sản. Vì vậy, sẽ hợp lý hơn nếu các căn cứ để xác định thiệt hại theo điểm b khoản 1 Điều 205 Luật SHTT được quy định theo hướng: “Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản phí chuyển giao li xăng hợp lý tương ứng với hành vi xâm phạm mà bị đơn đã thực hiện.”
Thứ tư: Bồi thường chi phí hợp lý để thuê luật sư, người đại diện
Theo quy định tại khoản 3 Điều 205 Luật SHTT, ngoài các khoản bồi thường khác chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Tuy nhiên, các vụ tranh chấp về quyền SHTT thời gian qua cho thấy, số lượng án mà Tòa án buộc bên có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải bồi thường cả chi phí thuê luật sư là không nhiều. Hơn nữa, trong số ít các vụ án mà Tòa án buộc bên vi phạm phải bồi thường chi phí thuê luật sư lại ấn định mức quá thấp, không phù hợp với chi phí luật sư thực tế mà bên bị thiệt hại đã bỏ ra để thuê luật sư. Hiện tại, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, mà theo đó, thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 18, Điều 19 của Nghị định này. Chẳng hạn, tại khoản 1 Điều 18 của Nghị định này có quy định : “…mức cao nhất cho 01 giờ làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định.”. Trong khi đó, thù lao luật sư tham gia tố tụng trong các vụ, việc dân sự nói chung, tranh chấp quyền SHTT nói riêng, hiện tại vẫn chưa có quy định cụ thể nào từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng quy định tại tiểu mục 2.4, Mục 2, khoản 1 Phần B Thông tư liên tịch 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BVHTT&DL-BKH&CN-BTP, mà theo đó:Chi phí hợp lý để thuê luật sư là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của vụ việc; kỹ năng, trình độ của luật sư và lượng thời gian cần thiết để nghiên cứu vụ việc. Mức chi phí bao gồm mức thù lao luật sư và chi phí đi lại, lưu trú cho luật sư. Mức thù lao do luật sư thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55[1] của Luật Luật sư.. Quy định này, theo tác giả hoàn toàn mang tính định tính, nên trong thực tiễn dễ bị các thẩm phán áp dụng theo cảm tính chủ quan riêng mình.
Thứ năm: Bồi thường về tổn thất tài sản và cơ hội kinh doanh do hành vi xâm phạm quyền SHTT
Điều 204 Luật SHTT nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tổn thất về tài sản là một thiệt hại cần được bồi thường, đồng thời cũng quy định trách nhiệm bồi thường đối với những tổn thất về cơ hội kinh doanh của chủ sở hữu quyền SHTT bị xâm hại. Khái niệm “tổn thất về tài sản” được hiểu là “mức độ giám sút hoặc bị mất đối với giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền SHTT được bảo hộ”; còn “tổn thất về cơ hội kinh doanh” theo hướng dẫn tại Điều 19 Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, được hiểu là những “thiệt hại về giá trị tính thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện việc khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp đối tượng của quyền SHTT nhưng trên thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra.”
Có thể thấy, cơ hội kinh doanh cũng như những lợi nhuận trong tương lai mà một tài sản trí tuệ có thể mang lại và giá trị thành tiền của tài sản này chẳng qua là sự phản ánh khác nhau về cùng một vấn đề và không phải là các giá trị độc lập. Vì vậy, giá trị bị giảm sút hoặc mất đi của một tài sản SHTT đã được xác định thiệt hại cần phải bồi thường trong trách nhiệm bồi thường do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra thì không thể yêu cầu bồi thường đối với những tổn thất về cơ hội kinh doanh nữa và ngược lại. Nghiên cứu pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy, không có sự phản ánh trực tiếp về trách nhiệm bồi thường đối với “tổn thất về tài sản” hay “tổn thất về cơ hội kinh doanh” trong những vụ xâm phạm quyền SHTT. Thường thì những yếu tố này sẽ được cân nhắc như một khía cạnh trong quá trình xác định các thiệt hại trực tiếp khác, như chi phí quảng cáo cải chính nhằm khôi phục danh tiếng và uy tín của chủ sở hữu quyền trong pháp luật của Mỹ hay khoản tiền bồi thường về uy tín, danh dự và tinh thần trong pháp luật của Nhận Bản, và không khi nào cả hai loại thiệt hại trên đều được xác định như những thiệt hại độc lập trong trách nhiệm bồi thường của người vi phạm. Vì vậy, chi phí quảng cáo trong pháp luật Việt Nam được xác định như biện pháp nhằm cải chính thông tin liên quan đến hành vi xâm phạm quyền SHTT và thiệt hại về tinh thần không được quy định để bồi thường thiệt hại, thì chúng ta nên quy định trách nhiệm bồi thường đối với một trong hai loại tổn thất trên. Và “tổn thất về giá trị tài sản SHTT” nên được quy định thay vì “tổn thất về cơ hội kinh doanh”, bởi lẽ sẽ dễ dàng và có nhiều cơ sở hơn cho các đương sự và Tòa án trong quá trình xác định cũng như chứng minh.
Thứ sáu: Về xác định lợi nhuận, thu nhập bị mất do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra
Khoản 2 Điều 18 Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ hướng dẫn thực thi Luật SHTT, có hướng dẫn cách tính lợi nhuận bị giảm sút do hành vi vi phạm theo cách “so sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi vi phạm”. Có thể nói việc xác định những tổn thất từ việc sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng SHTT là một điều hết sức khó khăn và hầu hết trong nhiều trường hợp chỉ mang tính tương đối. Thông thường nó được xem xét trong mối quan hệ so sánh trực tiếp với mức thu nhập, lợi nhuận thực tế của nguyên đơn trong giai đoạn trước khi có hành vi xâm phạm đó. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xác định lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn trong những trường hợp đó không thể đơn giản chỉ dựa vào phép so sánh thuần túy như vậy. Để có thể bảo đảm cho khả năng xác định một cách tương đối chính xác và đầy đủ lượng hàng hóa mà lẽ ra nguyên đơn bán được nhưng không bán được do hành vi xâm hại, thì việc xác định thiệt hại phức tạp hơn rất nhiều đối với một phép so sánh. Giả sử trong thời gian hành vi xâm phạm quyền SHTT xảy ra, doanh số và lợi nhuận của nguyên đơn không có sự sụt giảm so với thời gian trước, thậm chí số lượng bán hàng hay giá bán trên sản phẩm bị vi phạm cũng không giảm (nghĩa là kết quả của phép so sánh trực tiếp sẽ bằng 0, thậm chí là số âm), điều này đôi khi không đủ để khẳng định rằng nguyên đơn đã không bị mất lợi nhuận trên thực tế, bởi theo lý thuyết kế toán thì chúng ta cần xem xét mức độ tăng trưởng hàng năm trong hoạt động kinh doanh của nguyên đơn và tình hình tăng trưởng thực hiện kế hoạch đó. Ngược lại cũng có trường hợp, mặc dù doanh số và lợi nhuận của người bị thiệt hại thực tế có giảm so với thu nhập trước khi hành vi xâm phạm quyền SHTT xảy ra, nhưng sự giảm sút đó không hoàn toàn có nguyên nhân từ sự xâm phạm quyền SHTT mà do ảnh hưởng bởi các yếu tố về thị trường hoặc do sự kém hiệu quả trong chính hoạt động kinh doanh của người đó, thì việc thực hiện một phép so sánh như vậy cũng không thể bảo đảm một kết quả đúng, khách quan và toàn diện.
Ngoài ra, bởi việc xác định thu nhập hay lợi nhuận bị mất, bị giảm sút của nguyên đơn thực tế luôn là giả định, là sự phỏng đoán nên điều cần thiết và không thể bỏ qua là chúng ta phải cân nhắc xem những thông tin, căn cứ, yếu tố khách quan, chủ quan nào được coi là có liên quan và có khả năng tác động đến doanh số bán hàng và lợi nhuận của nguyên đơn để xác định một con số thiệt hại xác thực và hợp lý nhất. Vấn đề này, tham khảo pháp luật của một số nước như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đức thì việc xác định lợi nhuận bị mất của nguyên đơn dựa theo công thức kế toán sau: Lợi nhuận bị mất  = Số lượng hàng hóa không bán được do hành vi xâm phạm x Lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm.
Đây là công thức dễ xác định và có cơ sở tính toán hợp lý, cần được xem xét áp dụng trong giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền SHTT.
Th.S Lê Văn Sua -  Tòa án quân sự Khu vực 1 – QK9
 
[1] Điều 55. Căn cứ và phương thức tính thù lao
1. Mức thù lao được tính dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý;
b) Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;
c) Kinh nghiệm và uy tín của luật sư.
2. Thù lao được tính theo các phương thức sau đây:
a) Giờ làm việc của luật sư;
b) Vụ, việc với mức thù lao trọn gói;
c) Vụ, việc với mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án;
d) Hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định.